RVNAF, 1968-1975
By:
Bill Laurie, Historian.
Quân
lực Việt Nam Cộng Hoà: 1968-1975
Bài của nhà nghiên cứu về
Việt Nam Bill Laurie - Người dịch: Nguyễn
Tiến Viê.t.
Lời người dịch: Bill Laurie là sử gia Hoa
Kỳ, một trong những chuyên gia nghiên cứu về
Việt Nam và nhân chứng được mời tŕnh bày
quan điểm trong cuộc hội thảo mang tên “Quân
Đội Việt Nam Cộng Hoà: Suy ngẫm và tái thẩm
định sau 30 năm” (ARVN: Reflections and reassessments after 30
years) do Trung Tâm Việt Nam thuộc đại học Texas
Tech tổ chức tại Lubbock trong hai ngày 17 và 18 tháng 3
năm 2006.
Trong số nhiều diễn giả
Việt Mỹ, ông Laurie là người nêu ra quan điểm
trung thực và thẳng thắn nhất của riêng ông
về một quân đội mà ông từng sát cánh với
cương vị một chuyên viên t́nh báo cao cấp trong nhiều
năm, song song với những ư kiến không quanh co che
đạy về giới truyền thông và chính trị Hoa
Kỳ trong thời chiến tranh tại Việt Nam. Bài này
dịch thuật nguyên văn bài viết của Bill Laurie, mà
ông dùng để tŕnh bày lại, vắn tắt hơn, trong
buổi hội thảo. Bill Laurie gửi tặng bài
viết cho dịch giả, cho phép được dịch
và phổ biến trong giới truyền thông Việt
ngữ.
Trong bản dịch dưới đây, những chữ in
nghiêng trong ngoặc đơn là chú thích thêm của
người dịch để làm rơ nghĩa câu văn
Mỹ của tác giả, những chữ in đậm là
nguyên văn tiếng Việt mà tác giả viết trong tài
liê.u. H́nh ảnh lấy từ website của Trung tâm Việt
Nam, Lubbock, Texas.
QLVNCH thay đổi một cách đáng kể cả về số lượng lẫn phẩm chất trong khoảng thời gian từ 1968 đến 1975. Sự thay đổi không hề được giới truyền thông tin tức (Hoa Kỳ) lưu ư, và nh́n chung th́ đến nay vẫn không được công chúng Mỹ biết đến, vẫn không được nhận chân và mô tả đầy đủ trong nhiều cuốn sách tự coi là “sách sử”. Một phần nguyên nhân của sự kiện này là do bản chất và tầm mức của sự thay đổi không dễ được tiên đoán hay tiên kiến, dựa trên hiệu quả hoạt động và khả năng của QLVNCH trước năm 1968.
Bài này không hề muốn chối bỏ những vấn đề nghiêm trọng đă hiện hữu, hay chối bỏ rằng vấn đề tham nhũng, lănh đạo kém cỏi không tiếp tục gây hoạ cho khả năng của QLVNCH bảo vệ đất nước họ. Tuy nhiên, ở một mức độ nào đó những vấn đề này có được giải quyết, và những khía cạnh tích cực của QLVNCH không thể bị xóa khỏi trang lịch sử vinh quang.
Tôi đă tự chứng nghiệm điều này, khi đến Việt Nam cuối năm 1971, phục vụ 1
năm tại MACV, rồi sau đó
trở lại thêm hai năm, từ 1973-1975, làm việc
ở pḥng Tuỳ viên quân sự.
Khởi thuỷ, được huấn luyện
và dự trù phục vụ như một cố vấn, tôi
tham dự khoá huấn luyện căn bản sĩ quan
lục quân tại Fort Benning, Georgia, T́nh báo chiến
thuật và chuyên biệt về Đông nam Á ở Ft. Holabird,
Maryland, và học trường Việt ngữ tại Ft.
Bliss, Texas. Tới Việt Nam th́ được biết
những nhiệm vụ cố vấn đang
được giảm dần để đi đến
chỗ bỏ hẳn; nên thay vào đó tôi được
chỉ định vào MACV J-2 với cương vị
một chuyên viên phân tích t́nh báo, trước hết phụ
trách Cambodia, rồi tập trung vào Quân Khu IV, bao quát toàn vùng
đồng bằng châu thổ sông Mekong. Công việc này
mở rộng một cách không chính thức để bao
gồm công tác liên lạc giữa bộ Tổng tham mưu
QLVNCH, các toán cố vấn Mỹ, các chính quyền tỉnh
của Việt Nam, và cả các đon vị QLVNCH ở vùng
IV. Trong 3 năm đó tôi có mặt lúc chỗ này, lúc chỗ
khác, trên khắp 18 trong số 44 tỉnh của VNCH, liên
lạc không những với các đơn vị Mỹ và
VNCH mà cả với người Úc, cơ quan vịên
trợ Mỹ USAID, và CIA. Khi th́ đứng vào vị trí
rất cao cấp trong những buổi thuyết tŕnh ở
tổng hành dinh của MACV cũng như ở bộ
Tổng Tham Mưu QLVNCH, tuần lễ sau đó tôi có
thể đă lội trên những ruộng lúa tỉnh
Kiến Phong cùng với các binh sĩ Địa
phương quân, hay bay ngang tỉnh Định
Tường trên một chiếc trực thăng Huey
của QLVNCH, hoặc là nằm trong căn cứ Biệt
động Quân Trà Cú bên sông Vàm Cỏ Đông.
Nói tiếng Việt là điều vô cùng quan trọng, và trong ṿng một tháng sau khi tói Việt Nam, thật rơ ràng hiển nhiên là những điều tôi từng nghe ở Mỹ, dù là tin tức báo chí hay là những cuộc thảo luận ngốc nghếch trong các trường đại học, mà có thể diễn tả được những ǵ tôi đang trải qua và gặp phải. Nói vắn tắt, tôi tự hỏi “Nếu tất cả những người ở Mỹ quả là đang nói về Việt Nam, th́ ḿnh đang ở nơi nào đâỷ”
Những thời khắc
ngoài giờ làm việc của tôi được dàn
trải trọn vẹn trong một kích thước
thực tế hoàn toàn Việt Nam. Dù là ở Sài G̣n,
Cao Lănh, hay Rạch Giá, tôi cũng lui tới những cái quán
nhỏ, với những bàn cà-phê, ḿ, cháo... háo hức
lắng nghe người dân người lính Việt Nam nói
chuyện, tôi hỏi han, và học được thật
nhiều, nhiều hơn những ǵ tôi từng học
ở Hoa Kỳ.
***
Sự học tập của tôi không dừng
lại ở năm 1975. Từ đó đến nay tôi
đă đọc hằng feet khối những tài liệu
giải mật và hằng trăm cuốn sách, kể cả
những tác phẩm tiếng Việt, phỏng vấn
đến mức từ kỷ lục này qua kỷ lục
nọ những người cựu chiến binh gốc
Đông Nam Á và gốc Hoa Kỳ, săn t́m trong hằng trăm
trang web Việt Nam và Đông nam Á trên Internet. Vẫn c̣n
rất nhiều điều về Việt Nam, Lào, Cambodia và
Thái Lan hơn là những ǵ công chúng Hoa Kỳ tưởng,
và những kết luận do những người ở
những xứ ấy tự tŕnh bày lên th́ lại không phù
hợp với những ǵ mà hầu hết mọi con
người (ở Mỹ) tưởng là họ biết.
Quả là có những vấn đề nghiêm trọng về tham nhũng. Đúng là có những tấm gương về lănh đạo bất xứng. Tuy nhiên, chẳng phải ai nói hay gợi ư ǵ với tôi, mà chính là ngay lần đầu tiên đến vói Sư đoàn 9 bô binh VNCH, tôi đă phát giác khả năng dày dạn và đầy chuyên nghiệp trong những hoạt động mà tôi chứng kiến ở một trung tâm hoả lực cấp sư đoàn. Cũng chẳng ai nói với tôi là Sư đoàn 7 bộ binh VNCH, cái đơn vị măi bị kết tội v́ khả năng chiến đấu kém cỏi ở Ấp Bắc nhiều năm trước, đă biến thái thành một đơn vị có hiệu năng chiến đấu cao dưới tài lănh đạo chỉ huy của tướng Nguyễn Khoa Nam, một con người thanh liêm không một t́ vết, song song với tài năng về chiến thuật, mà đến nay vẫn không hề được công chúng Hoa Kỳ biết tới, tuy đă được người Việt Nam tôn sùng đúng mức. Cũng không hề có ai ngụ ư hay nói với tôi rằng có thể là lực lượng Địa phương quân tỉnh Hậu Nghĩa, là những dân quân của tỉnh, đă làm mất mặt chẳng những một mà tới ba trung đoàn chính quy của quân đội miền Bắc trong chiến dịch tấn công năm 1972 của Hà Nô.i. Họ đă nhai nát và nhổ phun ra nguyên cả lực lượng tấn kích của đối phương, một lực lượng có thể đă làm đổi chiều lịch sử vào thời kỳ đó. Địa phương quân không được pháo binh và không quân sẵn sàng yểm trợ như lực lượng chính quy VNCH, trong đó kể cả Nhảy Dù, Biệt Động Quân, Thuỷ quân lục chiến. Quân địa phương chỉ dựa vào kỹ thuật chiến đấu căn bản bộ binh. Nếu quân Bắc Việt đánh thủng được chiến tuyến này th́ họ đă lập tức trực tiếp đe doạ Sài G̣n, chỉ cách đó 25 dặm, buộc sư đoàn 21 bộ binh VNCH phải rút khỏi quốc lộ 13, từ đó để cho lực lượng Bắc Việt hướng thẳng vào An Lô.c. Và như tiến sĩ James H.Willbanks viết trong tác phẩm xuất sắc của ông (về trận An Lộc), Sư đoàn 21 tuy không thành công trong việc phá ṿng vây An Lộc nhưng cũng đă buộc Bắc Việt phải đưa một sư đoàn đổi hướng khỏi chiến truờng An Lộc, nếu không, nơi này có thể đă sụp đổ với những hậu quả khốc liê.t.
Nói vắn tắt, QLVNCH,
một cách toàn diện, đă có khả năng cao hơn
nhiều so với những ǵ tôi biết trước khi tôi
qua Việt Nam, và càng cao hơn nhiều so với những
ǵ được chuyển tới cho người dân
Mỹ. Ngày trứoc... và ngày nay cũng vâ.y.
***
Trở lại thời kỳ đang thảo
luận trong bản thuyết tŕnh này, ai cũng biết
QLVNCH vướng mắc nhiều vấn đề
trầm tro.ng. Điều này là hiển nhiên. Nếu không
như vậy th́ đă chẳng cần phải yêu cầu
những đơn vị chiến đấu của Hoa
Kỳ, Úc, Nam Hàn, Thái Lan và New Zealand tới đó.
Tuy nhiên, c̣n có những chỉ dấu cho thấy
lực lượng VNCH khi được trang bị
đúng mức và chỉ huy tốt đẹp th́ sẽ có
khả năng tới đâu. Năm 1966 một tiểu
đoàn Biệt động quân VNCH đă gây thiệt
hại nặng và đă “giúp” giảm quân số chỉ c̣n 1
phần 10 cho một trung đoàn Bắc Việt đông
gấp ba lần họ ở Thạch Trụ. Tiểu
đoàn này được Tổng Thống Johnson tặng
thưởng “Huy chương của Tổng Thống Hoa
Kỳ”. Đại Uư Bobby Jackson, cố vấn tiểu
đoàn này, đă mô tả người đối tác của
ông, đại uư Nguyễn Văn Chinh (hay Chính?), như là
con người tuyệt nhiên không hề sợ hăi. Tiểu
đoàn 2 TQLC, mang huy hiệu Trâu Điên, đă từng
bắt nạt nhiều đơn vị cộng sản
miền nam và chính quy Bắc Việt, chứng tỏ sự
xứng hợp của huy hiệu trâu điên (càng có ư
nghĩa đối với những ai đă từng gặp
phải một con trâu đang nổi giận (và bị nó
ăn hiếp!) Công trạng của họ không hề
được tường tŕnh trong giới truyền thông
tin tức của Hoa Kỳ, và về sau cũng bị
bỏ quên trong cái gọi là “lịch sử”...
Năm 1968, trong bối cảnh cuộc tổng
công kích 68 thất bại của Hà Nội, các nhà hoạch
định chính sách của Hoa Kỳ thấy rơ là kế
hoạch Việt Nam hoá phải được tăng
tiến, nhưng nhiều người (Mỹ) lại
lầm tưởng đó là ranh giới giữa hai thời
kỳ, thời kỳ QLVNCH không chiến đấu, và bây
giờ là lúc họ bắt đầu chiến đấu.
Thái độ này đă bỏ quên dữ kiện là mức
tử vong v́ chiến sự hằng tháng của QLVNCH đă
vượt xa mức tổn thất trong toàn cuộc
chiến của tất cả các lực lượng
đồng minh cộng la.i.
Rốt cuộc th́ QLVNCH
cũng được cung cấp vũ khí tối tân, thay
thế những trang bị thời thế chiến thứ
hai mà hầu hết quân lực này phải sử dụng
(khoảng đầu năm 1968 chỉ có 5% quân đội
VNCH được trang bị súng M16), nh́n chung th́ thua kém
vũ khí của Việt cộng và bộ đội
Bắc Viê.t. Đồng thời, quân số cũng tăng
tiến, theo như bảng dưới đây tŕnh bày:
(bảng ghi những con số gia tăng quân
số của các lực lượng chính quy và Địa
phương quân, Nghĩa quân, từ năm 1968 đến
năm 1972, cho thấy quân số tổng cộng tăng
28%, từ 820 ngàn lên 1 trịêu 48 ngàn quân. Trong đó, không
quân gia tăng quân số tới 163%, hải quân tăng 110%,
lục quân tăng gần 8% quân số)
Trong bảng này, nhóm từ Anh ngữ ARVN, tức
the Army of Republic of Vietnam, có nghĩa là Lục quân Việt
Nam, chỉ bao gồm 38% QLVNCH (tác giả không đồng ư
dùng nhóm chữ ARVN để chỉ QLVNCH, và ông dùng nhóm
chữ RVNAF, Republic of Vietnam’s Armed Forces). Ngoài ra c̣n những
thành phần khác, gồm cảnh sát dă chiến, Nhân dân
tự vệ, và các toán xây dựng nông thôn. Lực
lượng xây dựng nông thôn không được coi là
lực lượng chiến đấu, c̣n lực lượng
Nhân dân tự vệ thường bị chế diễu
nhưng (những lực lượng này) cũng là
chướng ngại cho quân Việt cộng và quân
đội Bắc Việt (North Vietnam’s Army trong nguyên
bản). Có lần một toán cán bộ xây dựng nông thôn
đă đẩy lui cả một tiểu đoàn Việt
cộng ở tỉnh Vĩnh Long. Các toán viên biết
gọi pháo binh của tỉnh yểm trợ. Chuyện này
cũng không được biết đến để
ghi nhận vào tài liê.u.
Thành phần của
lực lượng Nhân dân tự vệ th́ quá trẻ, hay
quá già, hay v́ thương tật nên không gia nhập quân
đội chính quy, chỉ phục vụ như lực
lượng pḥng vệ làng ấp chống lại những
toán thu thuế, tuyển mộ, hay tuyên truyền của
cộng sản địa phương. Nhưng Nhân dân
tự vệ cũng là một yếu tố mà cộng
sản địa phương phải đối phó sau
năm 1968. Trứoc đó không có lực lượng này,
Việt cộng ở địa phương tự do
đi vào ấp xă lúc ban đêm. Nhiều lúc Nhân dân tự
vệ không có hiệu quả, nhiều khi họ bị tuyên
truyền để đi theo Việt cộng, nhưng có
nhiều lúc khác lại có những báo cáo như sau: (trích
từ các sách vở của các tác giả người
Mỹ)
“ Hai Việt cộng đang bắt cóc một Nhân
dân tự vệ th́ một Nhân dân tự vệ khác xuất
hịên, bắn chết hai Việt cộng này bằng súng
M 1 (không ghi rơ garant hay carbine), tịch thu được
một súng AK47 và một súng lục 9 lỵ”
Và “cả hai ấp Prey Vang và Tahou đêm nay bị
bắn súng nhỏ và B-40. Nhân dân tự vệ địa
phương đẩy lui hai toán trinh sát nhẹ”
C̣n nữa: một Nhân dân tự vệ 18 tuổi đă
là người bắn cháy chiếc xe tăng đầu tiên
trong rất nhiều xe tăng T 54 của Bắc Việt
bị tiêu huỷ tại An Lộc trong cuộc bao vây
năm 1972.
Hà Nội không mấy hài ḷng về lực
lượng này, theo như tài liệu sau đây:
“Chúng (QLVNCH) tăng cường các lực
lượng bù nh́n, củng cố chính quyền bù nh́n và
thiết lập mạng lưới tiền đồn cùng
các tổ chức Nhân dân tự vệ bù nh́n ở nhiều
làng xă. Chúng cung cấp thêm trang bị kỹ thuật và tính
lưu động cho lực lượng bù nh́n, thiết
lập những tuyến pḥng vệ, và dựng ra cả
một hệ thống pḥng thủ và đàn áp mới ở
những khu vực đông dân cư. Kết quả là chúng
đă gây nhiều khó khăn và tổn thất cho lực
lượng bạn (Việt cộng).”
Sự kiện này không
thể xảy ra trước năm 1968, khi lực
lượng Nhân dân tự vệ được thành
lập và trang bị bằng những vũ khí thời
thế chiến thứ hai do các lực lượng QLVNCH
chuyển giao la.i.
Tương tự như vậy, lực
lượng Nghĩa quân, Địa phương quân
với sự trợ giúp của các toán cố vấn
Mỹ lưu động, được tuyển mộ
thêm từ năm 1968 và trang bị vũ khí tốt hơn,
khởi sự tiến bộ, như cố vấn David
Donovan thuộc một toán lưu động chứng
kiến trong một trận tấn công bộ binh năm
1970:
“ Chúng tôi vừa vuợt khỏi khu ḿn bẫy
chính th́ bị hoả lực từ một rặng cây
trước mặt bắn tới. Nước văng tung
toé xung quanh, đạn bay véo véo trên đầu, trong
tiếng súng nhỏ nổ ḍn. Binh sĩ bây giờ phản
ứng tốt lắm, không giống như trước kia
cứ mỗi khi bị bắn là họ gần như tê
liê.t. Trung sĩ Abney chỉ huy cánh đuôi của
đội h́nh hàng dọc, bung qua bên phải, sử
dụng như thành phần điều động tấn
kích, trong khi chúng tôi ở phía trước phản ứng
lại hoả lực đi.ch. Khi toán của Abney tới
được chỗ địa thế có che chở th́
họ dừng lại và bắt đầu tác xạ.
Duới hoả lực bắn che đó chúng tôi tràn tới
một vị trí khác. Hai thành phần chúng tôi yểm trợ
nhau như vậy và tiến được tới hàng cây,
sẵn sàng xung phong. Ba người trong toán của tôi
bị trúng đạn, không biết nặng nhẹ ra sao
nhưng mọi người đều xông tới. Chúng tôi
đă hành động khá haỵ”
Kinh nghiệm của Donovan không phải là
độc nhất. Cố vấn John Cook nhắc lại
niềm lạc quan của ông vào năm 1970:
“Chúng tôi (tức Cook và sĩ quan đối tác phía
Việt Nam) đang rất lên tinh thần, cảm thấy
như ḿnh là “kim cương bất hoại”. Tinh thần
chiến đấu và hăng hái chủ động tấn
công trong quận hết sức cao, khiến chúng tôi truy kích
quân địch một cách gần như khinh suất,
liều lĩnh.”
Những thành tích như vậy không phải
mọi nơi đều có. Có những đơn vị
không đáp ứng được trong thời kỳ thay
đổi và vẫn bị lănh đạo chỉ huy kém
cỏi, chẳng thực hiện một cuộc hành quân
lục soát với chiến thuật chủ động
tấn công nào. Có khi cố vấn Hoa Kỳ suưt bị
giết hay bị dọa giết bởi những sĩ quan
địa phương của Việt Nam mà họ không hoà
thuận đươ.c. Nhiều cố vấn Mỹ khác
không gặp cảnh ngộ khó chịu đó, nhưng
cũng chẳng có ấn tượng tốt nào về
hoạt động của những đon vị mà họ
cố vấn. Dù sao th́ những chuyện tích cực và thích
thú do cố vấn Mỹ chứng kiến cũng
đầy rẫy, nhưng lại hoàn toàn vắng bóng trong
những cuộc thảo luận trên nước Mỹ hay
trong ư tưởng của những người Mỹ b́nh
thường, cũng như trong những ǵ được
dạy dỗ tại các trường học Hoa Kỳ.
Sự tiến bộ hay những tấm
gương xuất sắc ngay trước mắt không
phải chỉ hiển
hiện trong những lực lượng lănh thổ và những sư đoàn bộ binh VNCH, (là những đơn vị) thường bị cho là không mấy nổi trội về chiến thuật chủ động tấn công. Cố vấn về kế hoạch b́nh định của tỉnh Quảng Trị Richard Stevens, trước đó từng phục vụ trong Thuỷ quân lục chiến Mỹ tại Việt Nam, tỏ ra ngạc nhiên trước thành tích của một đơn vị thụôc sư đoàn 1 bô binh Việt Nam trong trận tấn công một vị trí phóng hỏa tiễn của quân Bắc Viê.t. :
“Tôi có ấn tượng hoàn toàn tốt, và
thực sự là kinh ngạc, về cách thức hành quân và
sự táo bạo của họ trong mọi việc...
Đây là cuộc hành quân thứ 13 như vậy do vị
tiểu đoàn trưởng này chỉ huy. Ta đang nói chuyện
về những chuyên gia hết sức tinh thục trong
những ǵ họ làm, những người đă từng
thực hịên những công tác sởn tóc gáy và vẫn
tiếp tục thực hiện... Các cố vấn của
trung đoàn này luôn luôn nói với tôi lúc tôi ra đó, rằng
‘anh đang làm việc với những người giỏi
nhất. Chúng ta không có điều ǵ để mà có thể
nói cho những người này làm. Chúng ta (các cố vấn)
chỉ có việc yểm trợ hoả lực mà thôi. C̣n về
sự hiểu biết trong hành quân, th́ họ là
người dạy chúng ta’ Chúng tôi có các cố vấn
người Úc và người Mỹ, họ đều nói y
như nhau” (tác giả trích luận án Master năm 1987
của Howard C.H Feng, đại học Hawaii)
Ở miền Nam, trong lănh thổ tỉnh
Định Tường thuộc quân khu IV, sư đoàn 7
bộ binh VNCH cũng thi hành nhiệm vụ không hề có
khuyết điểm, theo lời xác nhận của các
cố vấn và các phi công Mỹ lái trực thăng
chuyển quân cho các binh sĩ sư đoàn 7 trong những
trận tấn công. Sư đoàn này từng bị mang
tiếng là sư đoàn “lùng và né” (thay v́ “lùng và diệt”,
search and destroy), có thể v́ trận Ấp Bắc hồi
1963, nhưng những ai trực tiếp công tác với
họ không thể nói ǵ hơn là những lời ca
tụng, ngưỡng mộ về sự tinh thông chiến
thuật và tinh thần hăng hái xông xáo. Một cựu cán
binh Bắc Việt xác nhận về sự dũng cảm
của sư đoàn 7 bộ binh:
“Vùng giải phóng bị thu hẹp... Tôi mất thêm
thời gian di chuyển quanh, cố tránh xa các cuộc hành
quân của quân đội VNCH.
Ở Bến tre (tức tỉnh Kiến Hoà)
sư đoàn 7 VNCH là lực lượng chính gây nên
nhiều khó khăn. Hầu hết sư đoàn
được tuyển mộ ở vùng châu thổ sông
Cửu Long nên họ biết rành hết cả vùng. Họ
thông thuộc vùng này cũng như chúng tôi” (tác giả trích
dẫn David Chenoff và Đoàn văn Toại, sách Chân dung
kẻ địch, Random House ở New York xuất bản
năm 1986)
T́nh h́nh c̣n tồi tệ hơn khi các đơn
vị quân đội Bắc Việt điền khuyết
cho các đơn vị “Việt cộng”, không hiểu
biết chút nào về vùng này và được trang bị
kém cho cuộc chiến kiểu các rặng cây ở phía
bắc vùng châu thổ. Một tù binh cho biết bị
bắt sống không bao lâu sau khi tới, lúc anh ta và những
người khác được lệnh phục kích một
cuộc hành quân càn quét của sư đoàn 7 vào ngày hôm sau.
Bố trí xong trước b́nh minh, đội quân đáng
lẽ phục kích người ta th́ lại bị tấn
công từ phía sau do thành phần bên sườn của
sư đoàn 7, trước khi tới lượt lực
lượng chính. (tài liệu trích dẫn)
Kết quả của điều này thêm hiển
nhiên trong thời gian giữa 1968 và 1971, thời kỳ mà
quân số lực lượng Hoa Kỳ giảm thiểu
hơn một nửa, trong khi những cuộc hành quân
tấn công của Việt cộng và quân Bắc Việt
lại bị suy giảm rơ rệt:
(Bảng thống kê trong bài ở đoạn này
cho thấy lực lượng Mỹ ở Việt Nam
từ năm 1968 đến 1971 đă giảm 322 ngàn quân,
tức 58%, các cuộc tấn công của Việt cộng và
quân Bắc Việt cấp tiểu đoàn trở lên
giảm 98%, chỉ c̣n 2 trận, những cụôc tấn
công lẻ tẻ của phía cộng sản cũng
giảm, kể cả những vụ bắt cóc, khủng
bố, trong khi số xă ấp có an ninh tăng 56%, diện
tích trồng tỉa lúa tăng 9,8%, thương vong v́
chiến tranh của dân và quân phía VNCH giảm 55%, quân số
của Việt cộng, Bắc Việt trên toàn miền Nam
giảm 21%)
Tỉ lệ về các cuộc tấn công lớn
nhỏ của phía cộng sản giảm hơn là tỉ
lệ giảm quân số, cho thấy một sự sa sút
toàn diện về khả năng quân sự, duới tỉ
lệ dự đoán là 21% quân số sụt giảm.
Điều này xảy ra trong khi quân số tham chỉến
của Hoa Kỳ giảm tới 58%. Quạn cộng
sản Bắc Việt và Việt cộng không những
chỉ có mặt ít hơn trên toàn lănh thổ, mà c̣n kém
khả năng tung ra những cuộc hành quân tấn kích.
Nhiều con số thống kê của VNCH không chính
xác, nhất là con số xă ấp có an ninh th́ lại c̣n kém
xác thực hơn, nhưng biểu đồ khuynh
hướng khá rơ ràng, và không có bằng chứng dù về
thống kê hay tin đồn vặt, mà nêu ra điều ǵ
khác hơn là sự xuống dốc thẳng đứng
trong thời vận của quân Việt cộng và quân
đội Bắc Vịêt trong khoảng thời gian từ
1968 đến 1971. Trong khi Việt cộng, gọi như
vậy để phân biệt với quân Bắc Việt,
không bị tiêu dịêt hoàn toàn, và những ổ kháng cự
có ảnh hưởng mạnh do họ kịểm soát
vẫn tồn tại ở những tỉnh như Chương
Thiện, Định Tường, Quảng Nam, Quảng
Ngăi, th́ Việt cộng ở địa phương
cũng không c̣n là một lực lượng chiến
lươ.c. Nếu không có sự xâm nhập đại quy
mô của quân Bắc Việt và sự cung cấp vũ khí
hiện đại, th́ chiến tranh đă dần dần
tự tàn lu.i. Những đơn vị và khu vực
của Việt cộng tồn tại được
cũng hoàn toàn không phụ thuộc vào quân đội
Bắc Việt để sống c̣n. Tác giả “phản
chiến” Frances Fitzgerald của cuốn “Lửa trong hồ”
(thật khôi hài, là cuốn sách bị đả kích bởi
cả người chỉ đạo về tư
tưởng của Hà Nội, Nguyễn Khắc Viện,
lẫn người ủng hộ Mặt trận Giải
phóng và Hà Nội, Ngô Vĩnh Long), nh́n nhận rằng
khả năng sinh tồn của cả Việt cộng
lẫn QLVNCH hồi năm 1966 là mỗi bên 50%, nhưng
đến 1969 th́ cơ hội sống c̣n của Việt
cộng chỉ c̣n 10%, trong khi tỉ lệ này phía QLVNCH lên
hẳn 90%. Nguyễn Văn Thành, sau 23 năm theo Việt
cộng, hồi chánh năm 1970, cho rằng cứu cánh
của Mặt trận giải phóng là vô vo.ng. Ông ta nêu ra
những cuộc hành quân gia tăng của QLVNCH, sự phát
triển những đơn vị Nghĩa quân xă quận và
các chương tŕnh Nhân dân tự vệ, cùng với kế
hoạch cải tổ về ruộng đất của
chính phủ VNCH, coi đó là những việc không thể
đối phó được nữa. Stanley Karnow khẳng
định thằng thừng trong cuốn sách
được đánh giá cao quá đáng của ông, không
cần giải thích nguyên do, rằng đến năm 1971,
th́ “riêng phía Việt cộng không phải là đối
thủ của quân đội chính quyền Sài G̣n”
Don Colin trải qua nhiều năm ở Việt
Nam, được nhiều người biết
đến qua lối bày tỏ thô lỗ, phản bác thô
bạo và quá đáng, cộng với lối rủa xả
om x̣m những ǵ mà ông ta coi là tào lao nhảm nhí. Ông này đă
phải chịu đựng những khó khăn trở
ngại, những khởi đầu sai lạc cùng
những vấn đề tương tự, bị coi
như toàn những điềm gở . Nhưng năm 1971
Don Colin cũng thấy những kết quả tích tụ
hiển hiện ở vùng châu thổ:
“Ba mươi tháng trước, con số
những cấp chỉ huy giỏi ở quân khu IV chỉ
đếm được trên một bàn tay. Ngay cả
tư lệnh quân đoàn, một cấp chỉ huy tốt,
trong sạch và tương đối có khả năng,
cũng nhút nhát, thiếu óc sáng tạo và không đủ
sức kích động thuộc cấp vào những hoạt
động xông xáo và tích cư.c. Cấp tư lệnh
sư đoàn th́ phần lớn thiếu khả năng,
hầu hết các tỉnh trưởng cũng kém cỏi và
tham nhũng. Các cấp chỉ huy thuộc quyền của
họ th́ chẳng những noi gương xấu mà
nhiều khi c̣n phạm khuyết điểm quá hơn
cấp trên nữa. Nhưng nay th́ chuẩn mực chung
về tài năng, sự trong sạch và tận tâm đă
tăng lên tới mức mà trước kia tôi cho là không
thể tưởng tượng đươ.c. Sự thay
đổi đặc biệt này khiến tôi thêm lạc
quan tin tưởng ở khả năng tối hậu
của chính phủ trong việc kiểm soát được
Việt Nam và thành lập một chính quyền ổn
đi.nh.”
***
Rồi tới cuộc tấn công 1972 của Hà
Nội, một cuộc tấn công tốc chiến phối
hợp phương tiện cơ khí kiểu cổ
điển (a classical blitzkrieg), với đặc
điểm là những vũ khí hạng nặng và những
vũ khí chết người được đưa ra
sử dụng như hoả tiễn tầm nhiệt pḥng
không SA-7, hoả tiễn công phá điều khiển
bằng dây AT-3, những đoàn chiến xa T-54 đuợc
yểm trợ bằng mấy trăm khẩu đội
hoả tiễn 122 ly, đại bác 130 ly, hơn hẳn
tất cả mọi thứ từng được Hoa
Kỳ cung cấp cho lực lượng pháo binh QLVNCH. QLVNCH
bị đánh tơi bời, có lúc đă gần tới
kết cuộc, và sự đổ vỡ hiển hiện
rơ ràng. Nhưng cái quân lực đang nằm đo ván đă
đứng dậy ở tiếng đếm thứ 8,
hồi phục sức lực và bẻ găy cuộc tấn
công nặng nề nhất ở Việt Nam, tính tới lúc
đó. Không ai khác hơn là học giả hàng đầu
của Hoa Kỳ về Việt Nam, Douglas Pike, đă tuyên
bố cuộc xâm lược của Hà Nội thất
bại là v́ “... Nam Việt Nam chiến đấu hơn
hẳn quân đội xâm lăng đến từ
phương bắc” Nhiều nhà b́nh luận, kể cả
tướng Ngô Quang Trưởng, nói tới không lực Hoa
Kỳ như một yếu tố quyết định, th́
đó đúng là yếu tố chính. Nhưng những
điều ngụ ư nói là QLVNCH không thể chiến
đấu nếu như không có không lực Mỹ, th́
đă thiếu sót hai điều căn bản. Thứ
nhất, quân đội Mỹ cũng chỉ được
yểm trợ bằng không lực giống như QLVNCH
đă đươ.c. Thứ hai, là điểm
người ta ít nh́n ra: không lực Hoa Kỳ là một
yếu tố bổ sung để cân bằng với hai
lực lượng vuợt trội của Bắc Việt
là thiết giáp và, lợi hại hơn cả, là lực
lượng pháo binh hơn hẳn, hoả tiễn 122 ly
chính xác và đại pháo 130 ly gây tàn phá quy mô ở tầm
tối đa 19 dặm (32 km). Hoa Kỳ không cung cấp cho
đồng minh của họ, VNCH, những vũ khí
lợi hại ngang bằng, nhất là về pháo binh,
như Liên Xô và Trung Cộng cung cấp cho Hà Nô.i. Hà Nội
có hằng trăm hoả tiễn 122 và đại pháo 130. QLVNCH
không đủ đại bác để phản pháo, chỉ
có 24 khẩu 175 ly, không chính xác bằng, bắn chậm
hơn các loại 122 ly và 130 ly. Cả pháo đài kiên cố
cũng không chịu nổi đạn 130 ly khoan hầm,
nổ châ.m. Tựu chung, trở lại đề tài không
lực, th́ không quân Việt Nam đă thi hành nhiệm vụ
một cách đáng kính phục trong các trận chiến
năm 1972, nhưng vẫn bị giới b́nh luận Hoa
Kỳ hoàn toàn quên lăng. Một chuyên viên điều không tiền
tuyến của Hoa Kỳ tỏ ra ngưỡng mộ
một phi công A-37 của Việt Nam mà anh ta cùng thi hành
một vụ tấn công không lục vào vị trí quân
Bắc Việt:
“Anh ta đâm chúc đầu chiếc máy bay
xuống tới tầm vũ khí liên thanh, và quả nhiên tôi
thấy nhiều lằn đạn lửa vạch
đường sáng bao quanh Pepper dẫn đầu. Tôi la
lên báo động, th́ đă thấy anh thả bom ở
độ cực thấp và ghi một bàn tuyệt hảo
trúng ngay bức tường. Trong những lần oanh kích
tiếp theo ngay đó, các phi công của không quân Việt Nam
cũng ghi bàn hoàn hảo mỗi lần đâm xuống,
cũng là mỗi lần họ bị đạn pḥng không
bắn lên xối xả... Hoả lực từ mặt
đất vô cùng mạnh mẽ. Quân Bắc Việt có
vẻ như biết rằng đối thủ của
họ là người Nam Việt Nam.
“Tôi tin chắc là hai chiếc A-37 sẽ bị
bắn rơi, nhưng cả hai đều xả hết
bom đạn của họ trúng đích, không hề hấn
ǵ. Hai phi công không quân Việt Nam đă tŕnh diễn một
màn tuyệt vời, và tôi ngưỡng phục ḷng can
đảm của họ trên cả sự thông minh. Trong giây
phút đó ḷng can đảm ấy đă vuợt hẳn
sự khôn ngoan trong những tính toán hơn thiệt về
sự an toàn của cá nhân họ"
Đây không phải là một sự kiện riêng
lẻ, theo như một quan sát viên không quân của Mỹ
chứng thực:
“Không quân Việt Nam tự chứng tỏ sự
trưởng thành trong cuộc tấn kích 1972... Trong
trận pḥng thủ Kontum KQVN thật cừ khôi, hết
sức tuyệt diệu”
QLVNCH lănh cú mạnh nhất của Hà Nội
năm 1972, mạnh hơn nhiều so với trận
Tết Mậu thân 1968, về khía cạnh quân số và
hoả lư.c. Ước lượng có khoảng gần
150 ngàn quân Bắc Việt đă tham chiến trong giai
đoạn 1, và thêm 50 ngàn quân khác bổ sung khi trận
chiến tiếp diễn. Mặt khác, trong trận Tết
’68 chỉ có 84 ngàn quân Việt cộng và Bắc Việt
tham chiến, với pháo binh và xe tăng rất hạn
chế (ngoại trừ ở quân khu I)
QLVNCH tiếp tục hoạt động tốt
đẹp sau khi hịêp định Paris gian lận
được kư kết và bị vi phạm lập
tức. Cuối tháng 11 năm 1973 một lực
lượng đặc nhiệm VNCH đă đánh
đuổi sư đoàn 1 Bắc Việt ra khỏi căn
cứ Thất Sơn, gây tổn thất nặng tới
nỗi sư đoàn 1 này của Bắc Việt phải
giải thể, số quân sống sót phải gia nhập
các đơn vị khác. Ít tháng sau sư đoàn 7 VNCH tung ra
cuộc hành quân lớn để quét các đơn vị
Bắc Việt khỏi mặt khu Tri Pháp ở vùng giáp ranh
ba tỉnh Định Tường-Kiến
tường-Kiến Phong, gây tổn thất nặng cho
đi.ch. Tri Pháp chưa bao giờ bị xâm phạm trong suôt
cuộc chiến tranh, có đặc điểm là những
vị trí pḥng thủ kiên cố; cuộc thất trận
gây hổ thẹn tới mức nhà cầm quyền cộng
sản cảnh cáo các cấp là phải dấu sự
thất bại đừng để bộ đội
của họ biết, sợ bộ đội xuống
tinh thần. Các phái đoàn Ba Lan và Hungary trong cái Ủy ban
liên hiệp quân sự bốn bên bất lực, chỉ là
gián điệp cho cộng sản Hà Nô.i. Nhưng một
trong những báo cáo của họ năm 1973 xác định
là không có đơn vị Việt cộng nào ngang sức
với QLVNCH, và cả những đơn vị thiện
chiến nhất của Bắc Việt cũng không sánh
được với các đon vị Nhảy Dù và
Thuỷ quân Lục chiến của VNCH.
***
Tuy nhiên đến giữa 1974 th́ việc Hoa Kỳ
cắt giảm viện trợ bắt đầu từ
từ siết cổ QLVNCH, và đạo quân này chỉ c̣n
nước xuống dốc dần dần từ khi
ấy. Đến 1975 cấp số cung ứng có sẵn
(Available Supply Rate- ASR) dành cho đạn đại bác đă
giảm nhanh tới mức không thể chấp nhận,
như theo bảng dưới đây, cho mỗi khẩu
đội bắn trong một ngày:
năm 1972 năm 1975 tỉ lệ
giảm
Đạn 105 ly 180 viên 10
viên 94%
Đạn 155 ly 150 viên 5 viên 97%
Đạn 175 ly 30 viên 3 viên 90%
Mọi thứ bị cắt đến tận
xương, rồi tận tuỷ. Nh́êu binh sĩ bộ
binh được cấp số đạn căn bản
là 60 viên M16 cho một TUẦN LỄ. Nhiều đơn
vị cấm binh sĩ bắn M16 liên thanh, chỉ được
bắn phát mô.t. Các đơn vị chạm địch có
khi bị giới hạn chỉ c̣n được bắn
yểm trợ hai trái đạn đại bác, ngoại trừ
khi bị tràn ngâ.p. Thiếu cơ phận thay thế, xe
tăng, tàu giang tuần, máy bay... nằm ụ chờ
rỉ sét (“cho mối mọt ăn”). Tệ hơn nữa,
binh sĩ QLVNCH và gia đ́nh họ phải chịu thiếu
thốn khi nền kinh tế bị lạm phát 50%, và 25%
thất nghiê.p. Một bản nghiên cứu của cơ quan
DAO thực hiện năm 1974 tiết lộ 82% binh sĩ
VNCH không có đủ thực phẩm cho nhu cầu của
gia đ́nh. Đói kém và suy dinh dưỡng làm xuống tinh
thần cùng khả năng chiến đấu. T́nh h́nh
những tháng sau đó càng xuống dốc, và người
ta đau ḷng chứng kiến một cái chết chắc chắn
sẽ đến v́ hằng ngàn vết thương.
Một năm sau, khi chính phủ Việt Nam cuối cùng
sụp đổ, và, theo như những sách gọi là sách
sử, th́ nhiều người Mỹ ngạc nhiên, tự
hỏi tại sao mọi thứ có thể sụp
đổ nhanh chóng như vâ.y. Lẽ ra câu hỏi đáng
chú ư hơn phải là tại sao QLVNCH đă có thể
chiến đấu dài lâu sau thời gian giữa năm
1974, với sự thiếu thốn về vũ khí, trang
bị, đạn dược, nhiên liệu, thuốc men,
với những cái bụng lép kẹp, và gia đ́nh cũng
đói khát không kém?
Khi bắt đầu sự đổ vỡ tan
hoang, và đám đông hỗn độn theo lệnh ông
Thiệu rút khỏi vùng cao nguyên, th́ khủng hỏang và kinh
hoàng xảy đến, phần nào tăng thêm v́ những
lệnh lạc trái ngược phát xuất từ dinh
Tổng Thống. Nhưng trong sự sụp đổ
nhục nhă sau cùng, vẫn có không ít những trận “Alamo”
nhỏ của những người lính VNCH chiến
đấu đến phút cuối.
Sư đoàn 18 đứng vững ở Xuân
Lộc là một trận anh hùng ca, nhưng sự có mặt
và vai tṛ của của Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù trong
trận này không hề được biết đến.
Khi quân khu II đổ vỡ và kết cuộc đă
gần, sư đoàn 7 VNCH vẫn đánh bại một
nỗ lực của quân Bắc Việt muốn cắt
quốc lộ 14, con đường quốc lộ duy
nhất nối vùng châu thổ Cửu Long vói Sài G̣n. Vào ngày
cuối, gọi là “ngày quốc hận” (tác giả viết
bằng tiếng Việt), một máy bay AC-119 trang bị
liên thanh sáu ṇng do các trung uư Thanh và Trần Văn Hiền
(hay Thành, Hiển?) c̣n bay quanh Sài G̣n yểm trợ hoả
lực cho những đơn vị VNCH lâm chiến sau cùng.
Hết xăng, hết đạn, họ đáp xuống
đổ xăng và lấy thêm đạn, sĩ quan hành
quân biểu họ không cần cất cánh nữa, tất
cả đă mất hết rồi. Nhưng các trung uư Thanh
và Hiền vẫn vững chí, nhận nhiên liệu và
đạn dược, và được hai chiếc
A1H-Skyraider tháp tùng do thiếu tá Trương Phụng và
đại uư Phúc lái, họ tiếp tục lại một
trận chiến tuyệt vo.ng. Sau cùng chỉ c̣n đại
uư Phúc sống sót, oanh kích đến khi hềt đa.n. Hai
trung uư Thanh, Hiền và thiếu tá Trương Phùng
đều bị SA-7 bắn rơi, tử trâ.n. Họ
đă chiến đấu đến măi tận giây phút
cuối cùng!
Một cách tổng quát, cứ bị đói
như QLVNCH đă bị th́ không một quân đội nào có
thể chống lại cuộc tấn công cuồng bạo
của quân đội Bắc Việt, vói thừa ứ
những khẩu pháo, xe tăng, vũ khí, nhiên liệu, xe
tải quân, đạn dược, do khối cộng
sản cung cấp. Truớc một đạo quân VNCH
bị rút ruột v́ cắt vịện trợ như
vậy, quân đội Bắc Việt đă phải tung ra
tất cả những ǵ họ có. Chừng 400 ngàn quân
cộng sản, gần 90% là bộ đội miền
Bắc, được đưa ra trận để
đánh bại QLVNCH. Hà Nội chưa bao giờ từng
tung ra một lực lượng khổng lồ và hiện
đại như họ đă ném vào trận chiến
năm 1975. Hà Nội chưa từng rút ra tất cả các đơn
vị từ Lào, Cambodia. Về lượng, quân số 400
ngàn là gần gấp 5 số quân Việt cộng và Bắc
Việt lâm chiến hồi tết 1968, trong khi về
phẩm, c̣n có hằng trăm đại bác tầm xa,
hằng trăm xe tăng, hằng ngàn xe tải, và nguyên
một kho vũ khí hiện đại, Đoàn quân viễn
chinh năm 1975 có hơn gấp năm lần khả
năng chiến đấu của lực lượng
cộng sản hồi tết Mậu thân 1968.
Xem xét sự việc từ một khía cạnh
khác, có thể phán đoán mà không sợ sai lầm rằng
giả sử quân đội Bắc Việt bị yếu
đi v́ cắt giảm mức cung ứng như QLVNCH
đă gánh chịu, th́ họ không bao giờ có thể tung ra
một cuộc tổng công kích sau cùng, mà hẳn đă
yếu kém hơn thế nhiều. Ưu thế hoả
lực quyết định chiến trường,
chẳng phải là điều ǵ mới lạ trong
lịch sử quân sự. Vào lúc cuối, QLVNCH chịu
sự tổn thất khoảng 275 ngàn tử trận, không
kể con số bị ám sát, trong một quốc gia mà dân
số trung b́nh khoảng 17 trịêu. Nước Mỹ
với dân số 200 trịêu, nếu chịu tổn thất
với tỉ lệ tương đương trong cùng
khoảng thời gian ấy, con số tử vong sẽ là 3
triệu 200 ngàn, cần dựng thêm 56 bức tường
đá đen nữa mới đủ ghi tên tử sĩ.
Điều này không lọt qua mắt của một số
nhà quan sát. Sir Robert Thompson, tuy biết rơ những
nhược điểm của QLVNCH, cũng kết
luận:
“ Quân đội và chính phủ VNCH vượt qua
những cuộc khủng hỏang quốc gia và cá nhân mà có
thể đă nghiền nát hầu hết mọi
người, và mặc dù mức tổn thất có thể
gây kinh ngạc và làm sụp đổ Hoa Kỳ, VNCH vẫn
duy tŕ được một trịêu quân dưới
cờ sau hơn 10 năm chiến tranh. Vương quốc
Anh cũng làm được như thế, theo tỉ
lệ tương đương, trong năm 1917, sau ba
năm chiến tranh, nhưng không bao giờ làm
được nữa. Hoa Kỳ chưa bao giờ làm
được điều nàỵ” (được
nhấn mạnh và thêm vào)
Kư giả Peter Kann, sáng suốt hơn rất
nhiều so vói những đồng nghiệp, cũng
nhập cuộc, sau khi Sài G̣n thất thủ:
“Nam Việt Nam quả đă phấn đấu
để kháng chiến trong nhiều năm ṛng ră, không
phải lúc nào cũng được Hoa Kỳ giúp
đỡ dồi dào. Ít có quốc gia hay xă hội nào mà tôi
cho là có thể chíên đấu được lâu dài
đến thế.”
***
Kế hoạch Việt Nam hoá có hiệu quả
không? QLVNCH có trưởng thành nên một lực
lượng chiến đấu có khả năng?
Có thể biện luận rằng kế hoạch
Việt Nam Hoá có hiệu quả, nhưng lại bị moi
ruột v́ cắt giảm viện trợ chí tử. Năm
1974 có cuộc thăm ḍ các tướng lănh Hoa Kỳ
từng phục vụ tại Việt Nam, nhằm t́m
hiểu chương tŕnh Việt Nam hoá thành công tới
mức nào. Các câu hỏi và trả lời như sau:
1. QLVNCH là lực lượng
chiến đấu rất đáng chấp nhận?: 8%
đồng ư.
2. QLVNCH xứng đáng và cơ may
hơn 50% đứng vững trong tương laỉ: 57%
đồng ư.
3. Có nghi ngờ khả năng QLVNCH
có thể đẩy lui một cuộc tấn công mạnh
của lực lượng Việt cô.ng- Bắc Việt
trong tương laỉ: 25% nghi ngờ
4. Ư kiến khác và không ư kiến: 10%
Như vậy 65% các tứong lănh chỉ huy của Hoa
Kỳ dành cho QLVNCH tỉ lệ phiếu thuận, tuy nhiên
những câu trả lời này có thể đă mang khuynh
hướng lệch theo chiều xuống. Không biết bao
nhiêu vị tướng phục vụ trong khoảng
1966-1967, trước khi QLVNCH thực hiện những
đổi thay to lớn nhất. Chức vụ mà các sĩ
quan này đảm trách là ǵ, họ làm việc với ai, và
họ quen thuộc với quân đội VNCH ở mức
độ nào, sự tăng tiến hiệu năng của
lực lượng Địa phương quân, Nghĩa
quân vân vân... cũng không được tiết lộ. Câu
hỏi cũng không hỏi :”Nếu quân đội Mỹ
cũng bị cắt giảm cung ứng như QLVNCH vào
năm 1974-1975 th́ c̣n đứng vững được bao
lâủ”
Điều có thể nói chắc chắn, là QLVNCH
từ 1968 trở đi đă hoàn thành nhiệm vụ
tốt đẹp hơn nhiều so với những ǵ
được biết đến một cách chung chung,
rằng các đơn vị QLNCH đă thi triển tài
năng để có thể đứng vững và đánh
bại quân xâm luợc Bắc Việt trong năm 1972,
thuờng là không cần tới sự yểm trợ
hoả lực ồ ạt của pháo binh và không quân
chiến thuật, như trong trường hợp của
Nghĩa quân và Địa phương quân. Điều có
thể nói chắc chắn nữa là sự hiểu biết
của người Mỹ về việc này thấp kém
đến kinh tởm, thấp tít mù xa như vực
thẳm không đáy.
Một yếu tố rất quan trọng nữa
mà nhiều nhà b́nh luận bỏ qua và tới nay vẫn
không biết ǵ hơn, là thế hệ các sĩ quan, hạ
sĩ quan QLVNCH trẻ trung hơn, hềt ḷng hết dạ
v́ mục tiêu một nước Việt Nam không cộng
sản. Họ cởi mở, ngay thật, biết lẽ
phải, trong sạch, biết nh́n nhận phải trái, ví
dụ như họ cho là người Thượng không nên
được đối xử thấp kém hơn,
rằng tham nhũng cần bị công kích, rằng một
quốc gia Việt Nam mới cần được
tạo thành, bung ra khỏi mọi xích xiềng quá khứ.
Nhiều người trong số này có thể có vị trí
tốt để tránh quân dịch hay giữ một chỗ
an toàn, không ra trận; nhưng họ không cần cả hai thứ
đó, đă có mặt trong hàng ngũ phục vụ tại
những vị trí chiến đấu đầy nguy
hiểm, với tư cách những người t́nh nguyê.n.
Thái độ của họ được một sĩ
quan trẻ của QLVNCH bày tỏ:
“Những người ở cỡ tuổi tôi vào
quân đội v́ chúng tôi có một lư tưởng, chúng tôi
hiểu được cuộc sống trong một thế
giới tự do ra sao, và sống trong thế giới
cộng sản ra sao. Không phải như người ta nói,
rằng những ai vào quân đội th́ chỉ v́
đến tuổi lính và không có lư tuởng ǵ riêng cho ḿnh.
Nhưng người Mỹ không bao giờ có vẻ hiểu
ra điều đó.”
Trần Quốc Bửu là chủ tịch Liên
Đoàn Lao công Nam Việt Nam, tương đương
với AFL-CIO của Hoa Kỳ. Ông có ảnh huởng và có
thể xếp đặt cho con trai ông t́m một chỗ an
toàn, an toàn hơn nhiều so với vị trí của anh này
là một sĩ quan bộ binh VNCH. Trong những tuần
lễ sau cuối của VNCH, lúc bị Bắc Việt
dập pháo tơi bời, tuyệt vọng trong cảnh
thiếu đạn, con ông Bửu viết cho ông một lá
thư:
“Ba phải giải thích cho người Mỹ
hiểu sự nghiêm trọng của t́nh h́nh chúng ta... Họ
phải cung cấp vịên trợ quân sự và kỹ
thuật như họ đă hứa. Con xin ba, ba à, hăy can
thiệp với họ. Nếu không, chúng ta sẽ bị
đè bẹp và thất trâ.n. Tụi con không hèn nhát. Tụi
con không sợ chết... Trong mọi t́nh húông, con sẽ
giữ vững vị trí và không rút luị”
Con ông Bửu hy sinh tại chiến trường.
Bác sĩ Phan Quang Đán là quốc vụ khanh
về định cư và tị nạn, một cựu
đối lập với ông Ngô Đ́nh Diệm, nổi
tíêng nhờ trong sa.ch. Ông có đủ quyền lực và
ảnh hưởng để giữ con trai là Phan Quang
Tuấn khỏi bị nguy hiểm. Cả hai cha con đều
không chọn điều đó, và Tuấn t́nh nguyện lái
A-1E Skyraider, chỉ dùng để yểm trợ chiến
thuật gần cho các dơn vị dưới đất.
Sau khi tiêu diệt 7 xe tăng quân Bắc Việt tại khu
vực ngưng chiến, trong trận tấn công 1972
của Hà Nội, đại úy Tuấn bị hoả
lực pḥng không địch bắn rơi, tử trâ.n.
Những cá nhân ấy không phải là duy nhất.
Người viềt bài này hằng ngày gặp những phi
công trực thăng vơ trang trẻ tuổi, những sĩ
quan trẻ trong Biệt động quân, Thuỷ quân lục
chiến, Nhảy dù, tất cả đều t́nh nguyện
lănh nhiệm vụ tác chiến nguy hiểm, bị
“luỡng đầu thọ địch”, với hệ
tư tưởng về một nước Việt Nam
cộng sản, và với nạn tham nhũng trở thành
thông lệ hằng ngày ở Sài G̣n. Một trong những
tấm gương gây xúc động hơn nữa về
ḷng tận tuỵ với chính nghĩa quốc gia, là
cảnh các sinh viên sĩ quan truờng Vơ Bị quốc gia
Đà Lạt chuẩn bị cho trận đánh sau cùng
của họ, mà kư giả Pháp Raoul Coutard chứng kiến,
vào lúc họ tiến ra để chặn các đơn
vị quân đội Bắc Việt đang tiến
tới:
“-Anh sắp bị giết đó!
- Vâng. Một sinh viên sĩ quan trả lời.
- Sao vậy? Đă kết thúc rồi mà!
- Tại v́ chúng tôi không ưa cộng sản”
Và, ḷng đầy can đảm, những sinh viên
trẻ tuổi trong bộ quân phục mới toanh,
tuyệt đẹp, giày bóng loáng, tiến ra để
chờ chết”
Trường Thiếu Sinh quân ở Vũng Tàu, là
trường nội trú, trong học tŕnh có dạy quân
sự cho các thiếu niên Việt Nam có cha tử trâ.n. Khi
đến lúc cuối, những em trai 12-13 tuổi
đuổi các em thiếu sinh quân nhỏ hơn về nhà,
lập chướng ngại vật bảo vệ
trường và đối đầu với các đơn
vị quân Bắc Việt:
“Họ tiếp tục chiến đấu sau khi
tất cả mọi người khác đă đầu
hàng!... Nhiều người trong số họ bị
giết. Và khi quân cộng sản tiến vào, các thiều
sinh quân đánh trả. Cộng sản không vào
được ngôi trường ngay lúc đó.”
Những con người tương tự (lúc
đó) đang gia tăng trong mọi cấp bực của
QLVNCH, và nhu cầu cấp bách của t́nh h́nh buộc sự
thăng thưởng phải dựa trên khả năng,
không dựa trên quan hệ chính trị hay quan hệ gia
đ́nh.
Giới truyền thông Hoa Kỳ đă thất
bại tại Việt Nam, thua bại hoàn toàn và thê thảm
hơn nhiều so với các lực lượng quân sự
của VNCH, Hoa Kỳ và các đồng minh. Họ
thường lên án bằng những lối can thiệp
đầy tự phụ và tự măn. Một cuộc
thăm ḍ 9,604 chương tŕnh truyền h́nh của NBC, CBS
và ABC từ 1963 đến 1977 cho thấy rơ những sự
thiều sót của những cái gọi là bài tường
thuật truyền h́nh. 0,7% chưong tŕnh nói về việc
huấn luyện QLVNCH. 0,8% về b́nh đi.nh. 2,7% về
chính quyền hay quân lực VNCH hay Cambodia. Tổng cộng
chỉ có 392 chương tŕnh, tức 2,7% toàn bộ các
chương tŕnh tin tức truyền h́nh Mỹ,
tường tŕnh về Việt Nam. Không có một lời
nào về hơn 200 ngàn hồi chánh viên, không một lời
về QLVNCH thiện chiến. Không có ǵ về những phi
công Ong Chúa lừng danh của trực thăng Việt Nam
cứu mạng cho những toán lực lượng
đặc biệt Hoa Kỳ chạm địch dọc
đường ṃn Hồ Chí Minh. Hầu hết
người Mỹ, nếu không phải là tất cả,
đều nhớ h́nh ảnh bi hùng của một
người Trung Hoa đứng trước đoàn xe
tăng ở quảng trường Thiên An Môn, nhưng không
ai biết trung sĩ thuỷ quân lục chiến Việt
Nam Huỳnh Văn Lượm đứng trên cầu
Đông Hà chặn đứng đoàn xe tăng Bắc
Việt, tác xạ bằng khẩu súng chống tăng LAW
của anh:
“Cảnh tượng anh lính TQLC nặng có 95 cân
Anh trụ ngay trên đường tiến của 40 xe
tăng không có ư nào muốn dừng lại, trên một khía
cạnh th́ là dại dột một cách khó tin. Trên khía cạnh
khác, quan trọng hơn, h́nh ảnh này mang đầy
niềm phấn khích đối với một lực
lượng pḥng thủ mỏng manh đến thê thảm,
và với nhiều người tị nạn, ít ai trong
số đó từng chứng kiến một hành
động thách đố dũng cảm đến thế...
Sự anh dũng lạ thường của người
lính thuỷ quân lục chiến Nam Việt Nam này đă
khiến đợt tấn công bằng xe tăng, tới
lúc đó chừng như chắc chắn phải thắng
lợi, đă bị mất đà tấn kích.”
Trong một khoảnh khắc mà giới truyền
thông mang tật cận thị lên tiếng, th́ phóng viên Donald
Kirk tuyệt đối không tỏ ra sự quan tâm nào khi
đến thăm sư đoàn 7 bộ binh VNCH, nơi
đă trở nên một đơn vị có hiệu năng
cao tuyệt dưới tài lănh đạo của
tướng Nguyễn Khoa Nam. Quân nhân trong sư đoàn
nhận thức rơ giá trị những nông trại của
sư đoàn do tướng Nam thiết lập để
giảm bớt gánh nặng kinh tế cho binh sĩ của
sư đoàn 7. Nhưng khi Kirk và các phóng viên khác bị
giữ lại ở một điểm chắn
đường của quân đội Bắc Việt
rồi được thả ra sau đó, th́ Kirk lại
thất vọng v́ anh ta không có cơ hội để nói
chuyện với bộ đội Bắc Việt:
“Tôi cứ nghĩ măi về việc trông họ
như vừa bước ra khỏi cuốn phim. ... Họ
có vẻ là những tay chính quy, vậy đó. Tôi chỉ mong
sao chúng tôi đă có thể ở lại thêm và nói chuyện
với họ lâu hơn.”
Ông Kirk có thể yên tâm rằng quân sĩ sư
đoàn 7 đều là “những tay chính quy”, rất đáng
để nói chuyện, và học hỏi nơi họ. Anh
chàng này, cũng như đông đảo trong giới
truyền thông làm tin tức, đă không để ư ǵ
đến việc đó, cho nên không có ǵ kỳ bí về
nguyên nhân v́ sao hầu hết những người Mỹ
từng phục vụ tại Đông Nam Á đều nh́n
cái giới truyền thông tin tức này với sự khinh
miệt gay gắt.
Phải chi giới này chịu khó quan hệ
với quân dân Việt Nam mà họ gặp gỡ, như tôi
đă làm nhiều lần, th́ đám kư giả hẳn đă
biết trong mắt những người Việt ấy
chủ nghĩa cộng sản của Hà Nội là
điều đáng khinh bỉ và kinh tởm, như một
loại phản bội văn hoá và truyền thống
Việt Nam. Không phải những người Việt này
chiến đấu và hy sinh để bảo vệ
“chế độ tham nhũng của Thiệu”, mà là
để ǵn giữ một cuộc sống tốt
đẹp hơn cho người dân, cho con cái, và cho
đất nước của họ. Một thuỷ quân
lục chiến Việt Nam diễn giải và lột
tả chân xác nhất về điều này, khi anh ta nói
với tôi rằng sau khi quân đội VNCH giải
quyết xong với quân đội miền Bắc, họ
sẽ quay súng lại chống đám tham nhũng ở Sài
G̣n. Những sự kiện thảm thiết bi thương
sau năm 1975đă chứng thực tính thuận lư và giá
trị của điều quyết tâm ấy.
***
Giới truyền thông giải trí và giới giáo
dục ở Hoa Kỳ cũng chẳng khá ǵ hơn, mà c̣n
măn nguyện khi lặp lại, nếu không phải là thêm
mắm thêm muối vào cái chuyện thần thoại do
truyền thông dựng lên. Một cuốn sách sử trung
học được sử dụng rộng răi ở
Mỹ có chương sử về Việt Nam không hề
nói đến QLVNCH, chỉ viết rằng :”Việt Nam hoá
thất bại,” ngoài ra c̣n gom góp hơn 200 điều
khẳng định có thể được chứng minh
là sai trái và mang hoàn toàn tính chất dẫn dắt lạc
hướng, trong 13 trang bài ho.c. Có nói đến vụ
tấn công sang Cambodia, nhưng không nói ǵ về việc quân
VNCH tham dự đông đảo hơn lực lượng
Hoa Kỳ, 29 ngàn quân so với 19,300 quân Mỹ tham chiến.
Sách cũng không nói lên rằng trước khi chính thức
mở chiến dịch, quân đội VNCH đă tấn
công trước vào các vị trí pḥng thủ của quân
đội Bắc Việt ở Cambodia. QLVNCH đă hoàn toàn
vô h́nh, như một đề tài sẽ được
tŕnh bày nơi đây (trong cuộc hội thảo)
Phim ảnh và truyền h́nh lại càng tệ
hơn, mặc dù có được một số phim tài
lịêu lịch sử. Cả cuốn phim “Bat 21”, nhằm
miêu tả cuộc t́m cứu trung tá Iceal Hambleton năm 1972,
không thể hiểu được tại sao đă
loại hẳn sự kiện là một chiến sĩ Người
Nhái Việt Nam, Nguyễn Văn Kiệt, người cùng
thi hành công tác t́m cứu đó với người nhái Hoa
Kỳ Tom Norris, được tặng thưởng huy
chương US Navy Cross do sự dũng cảm và anh hùng
của Kiê.t. Làm sao công chúng có thể trông mong
được biết bất kỳ điều ǵ khi mà
chề độ “kiểm duyệt” trên thực tế
đă bôi xoá tất cả và từng dấu vết của
sự hoạt động gương mẫu của QLVNCH?
***
Sau cùng, cần phải nh́n nhận rằng QLVNCH
đă bị đè bẹp bởi một gánh nặng
trầm kha không thể nào vượt thắng: đó là
một đồng minh bất xứng, ngu dốt và gây
rối một cách đáng kinh ngạc, dưới h́nh
thức cái chính phủ Hoa Kỳ.
Một hội nghị chuyên đề toàn diện
nên được tổ chức về đề tài này, và
cần phải có hội nghị đó. Những chiến
luợc giả hiệu phát xuất từ Washington, về
bản chất, phải bị coi là cẩu thả mang tính
cách tội ác. Không một hành động nào
được tung ra để chặn và giữ
đường ṃn Hồ Chí Minh. Không có con đường
này th́ cuộc chiến tranh của Hà Nội đă không
thể nào tiến hành đươ.c. Không một việc
ǵ được thi hành để giao chiến với chiến
tranh thông tin tuyên truyền-phản tuyên truyền
dưới h́nh thức gọi là địch vận,
một trong những chiến lược quan trọng
của Hà Nội, được thi hành với những
sự lừa gạt quỷ quyệt xuất chúng. Không làm
một việc ǵ măi đến khi cơ quan CORDS
được thành lập để ra kế hoạch và
phối hợp những hoạt động quân sự và
b́nh định về mặt t́nh báo. Không làm một
việc ǵ để khai triển một liên minh rộng
lớn như một chiến trường chung của
người Việt, người Lào, người Cambodia và
Thái lan, chống lại kẻ thù chung, trong khi Hà Nội
đă làm y như vậy: thiết lập một cấu
trúc chỉ huy chiến trường Đông Dương
nhằm kết hợp mọi yếu tố vào một
chiến lược gắn bó cho toàn khu vư.c. Lư cớ
về lănh đạo của Hoa Kỳ là mù loà , lần ṃ
vụng dại như con heo trên tảng băng, như
một con cóc vàng, rất giàu có nhưng cũng rất ngu
đô.n. (những chữ in đậm là những chữ
tác giả viết bằng tiếng Việt)
Những kế hoạch, những đề
nghị đi ngược gịng lịch sử khó có thể
được chứng minh hoàn toàn chăc chắn, và có
thể chiến tranh ( Việt Nam đă qua) là một
cựôc chiến không thể nào thắng đươ.c.
Có thể như vâ.y. Tuy nhiên những người
Mỹ, người Úc đă phục vụ sát cánh những
chiến hữu của họ trong QLVNCH, “những chiến
hữu, bạn bè, giống như anh em ruột,” (viết
tiếng Việt trong nguyên bản) mang trong ḷng họ
nỗi buồn sâu xa v́ đă thua cuộc, hay đă mất
biết bao bạn bè tận tuỵ, mất cả niềm
vinh dự lớn lao cho việc đă cố gắng
đạt cho kỳ được một thế giới
tốt đẹp hơn cho những người dân
thường của Việt Nam, Lào, Cambodia và Thái Lan. Họ
không bị thúc đẩy v́ những quan niệm tinh vi
về địa lư chính trị thế giới, nhưng
đúng hơn, là do sự kính trọng và ngưỡng
mộ đối với nhiều người Đông Nam Á
đă biềt yêu quư xứ sở, những con người
đă “thề bảo vệ giang sơn quê hương”
Nhiều trang lịch sử c̣n chưa
được lật ra, phản ảnh sự tiếp
nối cái khuynh hướng của Hoa Kỳ chỉ toàn
nh́n qua con mắt người Mỹ, bị lọc qua
định kiến của người Mỹ. Một
số sách vở nói đến Việt Nam như một
“giai đoạn thử thách đầy khổ đau
của Hoa Kỳ,” mà chưa từng một lần hỏi
xem người Đông Nam Á đă trải qua loại
thử thách khổ đau nào. Đầy rẫy những
dữ kiện lịch sử quư giá và những nét quan sát
sắc sảo nằm trong những cuốn sách được
viết do người Việt Nam (và cả
người Lào,) Thiếu những sách đó, không thể
nào có được sự hiểu biết toàn diê.n.
Những tác phẩm của Lư Ṭng Bá, Hà Mai Việt, Phạm
Huấn, Phan Nhật Nam, Trần Văn Nhựt, và nhiều
người khác, đang kêu gào đ̣i được
dịch thuật, cũng như hằng chục bài phổ
biến hằng năm trên sách báo tạp chí quân sự và các
ấn bản khác. Nhiều bài trong đó mô tả những
trận đánh, những diễn tiến và những nhân
cách, không hề được các sử gia Hoa Kỳ
biết đến. Không tham khảo những nguồn
đó th́ chắc chắn là chiến tranh Việt Nam,
cũng là chiến tranh Đông Dương của Hà
Nội, sẽ măi là những bí ẩn không thể giải
đoán, và lịch sử chân thực của QLVNCH sẽ măi
bị chôn vùi dưới tầng lớp này qua tầng
lớp nọ của những chuyện hoang
đường, của sự không thông hiểu, và của
sự giả định vô căn cứ.
Bill Laurie – March 18, 2006. Nguyễn
Tiến Việt dịch thuật