Đàn tràng
Giải oan
Nhìn
dưới khía cạnh tâm lý dân tộc và tâm lý trị
liệu
Oan và giải oan
Sự phán xét công bằng và hợp lý về một sự
việc đã xảy ra, một hành động đã làm là
công lý hay bất công, thông suốt hay vướng mắc,
oan hay không oan thường không đơn giản, rõ ràng và
cụ thể như trắng với đen, sáng với
tối. Do đó, sự phân định và quyết đoán
rạch ròi những hành động hay sự cố xảy
ra, đã vi phạm đến mạng sống, tài sản
và tinh thần... là oan hay không oan thường bị
vướng mắc do vị thế, quan điểm,
văn hóa và cả một chuỗi hệ lụy theo sau.
Với một dòng lịch sử triền miên trong chiến
tranh, với bao nhiêu tai trời ách nước, người
Việt
Nam
thường xuyên đối mặt với những
nỗi oan ức truyền đời. Có thể nói
rằng, oan là một khái niệm gắn liền
với tâm lý dân tộc Việt
Nam
. Trong khung cảnh
văn hóa làng xã, sự oan ức đồng nghĩa
với bất công, áp bức, mất mặt, hận thù, xa
lánh... có khi là tội lỗi giữa đối tượng
bị oan và tập thể xã hội đang tồn tại.
Oan, trước mắt đại chúng, có nỗi oan
thể lý và nỗi oan tâm lý. Về mặt thể lý, oan
là khi bị những sự tác động từ bên ngoài
như biến cố, tai ách, bạo lực làm mất mát,
thương tật, chết chóc đột ngột ngoài tầm
dự liệu của nạn nhân bị chịu oan ức.
Về mặt tinh thần, oan là bị hiểu lầm,
bị nhìn sai, bị đánh giá không đúng, bị phê phán
bất công, bị nhận định thiên lệnh... và
cuối cùng mang chịu kết luận, phán quyết không
hợp với công lý.
Nỗi oan ức có mẫu số chung trong cả hai nền
văn hóa Đông và Tây. Nhưng cách giải quyết nỗi
oan thường mang nặng yếu tính của truyền
thống, xã hội và đức tin.
Trước khi đạo Phật và đạo Chúa ra
đời và du nhập vào Việt
Nam
,
những nỗi oan Việt
Nam
được xem
như đã có "Đèn Trời soi xét”. Đèn Trời là
một thứ công lý tự nhiên trong tâm thức dân tộc
Việt.
Đạo Phật truyền thừa vào Việt
Nam
bằng
con đường tâm linh xã hội (socio-spiritual).
Đấy là một sự kết hợp hài hòa giữa tín
lý giác ngộ, giải thoát, độ sanh của giáo lý
Đại Thừa và đức tin truyền thống
"Đèn Trời soi xét" của tâm lý dân gian Việt
Nam. Trong bối cảnh văn hóa phương Đông,
nhất là Việt Nam, thì giải oan là một sự
cứu độ siêu hình thông qua hình thức cúng tế và
cầu nguyện mang đậm nét tâm lý dân tộc và tâm linh
Phật giáo.
Với khái niệm giải oan đời thường mang
tính đại chúng trên đây, đạo Phật đi vào
cuộc đời và đóng vai một tôn giáo điển hình
về những lễ nghi và kinh văn sử dụng trong
việc giải oan thông qua những Đại Trai đàn
Bạt độ Giải oan. Đạo Phật không
dựa vào một quyền năng tuyệt đối hay
tin vào một đấng sáng tạo có toàn năng quyết
định số phận của con người như
thế; mà xem mọi chuyện lớn nhỏ xảy ra là
một chuỗi sự kiện tác động qua lại
với nhau theo nguyên lý nhân quả dưới tác
động của trùng trùng Duyên Nghiệp. Hình thái sự
sống hiện tiền và khuynh hướng tâm linh thay
đổi thường xuyên, được tạm
gọi là "số phận" của một
người, luôn luôn biến đổi theo tác động
khách quan và có thể thay đổi, cải thiện theo tác
động chủ quan. Vì vậy, Đàn tràng Giải oan
chỉ là một trong muôn vàn hình thức làm phương
tiện góp phần cho quá trình thay đổi và cải
thiện đó. Thế nhưng, thật ra, khái niệm “oan”
và “giải oan” không có trong kinh điển của
đạo Phật nguyên thủy. Hiện trạng của
một sự dính mắc vào hành động hay hệ
quả bất thường được gọi là “oan”
không hiện diện trong đạo Phật vì rằng:
Sự việc xảy ra trong giây phút hiện tiền là do
tác động của Nghiệp. Nghiệp là sự tích
lũy mọi hành động và sự việc thiện ác,
lớn bé, cao thấp... từ vô số kiếp
trước cho đến nay. Mọi sinh vật và sự vật
(pháp) đều chết đi và sinh ra trong từng nháy
mắt hay trong từng đơn vị vi tế nhất
của thời gian được gọi là Sát-na. Một thực
thể hiện tiền chỉ là một hình ảnh mang
một tên gọi giả tạm do Nghiệp tạo ra;
rồi lập tức bị biến đổi do một
lực tác động khác gọi là Duyên. Sự sống
chết nầy là nguyên nhân và thực thể của quá trình
thành, trụ, hoại, diệt; sinh, già, bệnh, chết
mang tính khách quan mà không một sinh vật hay sự vật
nào tránh khỏi. Trong chuỗi dài Nghiệp và Duyên
tương tác, biến hiện trùng trùng đó, nguyên lý nhân
quả chi phối sự vận hành theo một tiến
trình chặt chẽ. Tiến trình nầy vừa chi li
vừa rộng khắp; vừa hữu hình, vừa vô hình;
vừa tâm linh vừa vật lý mà với nhãn thức
giới hạn của con người thì sự diễn
tiến như vừa hợp lý, vừa phi lý nên
người ta chỉ còn biết dùng những nhãn hiệu
đã có sẵn như thiện và ác, oan và không oan, cao cả
và hèn mọn... để tạm dán vào mà phân định.
Bước chủ động và tích cực tiếp theo là
sự cố gắng tìm cách hóa giải, biến đổi
cái "thân phận hiện tiền" thành một thể
trạng khác theo ước muốn cải thiện và
vươn lên của người bị oan hay người
giúp giải oan trong một thời điểm, một
cơ hội thuận lợi nào đó mà chữ nhà Phật
gọi là "duyên". Giải oan, do đó, là những
phương tiện trung gian và tạm thời giúp “sửa
sai” một trạng huống vô minh trong quá khứ thành sáng
tỏ và công chính trong hiện tại và tương lai.
Nhờ đấy – ít nhất cũng là qua sự tin
tưởng của những người ở thế
tự nguyện làm kẻ cầu nguyện, biện minh --
nỗi oan ức sẽ được hóa giải và sự
đày ải của nạn nhân chịu oan sẽ
được chấm dứt. Nghi thức giải oan,
tự bản chất, là một ý hướng hành
thiện, lợi tha mang tinh thần từ bi (cứu
người bị chìm đắm), hỷ xả (hóa
giải) và trí tuệ (phá vô minh) của Phật giáo. Nó hoàn
toàn khác xa với những hình thức "cải
đạo linh hồn tập thể" của những
tôn giáo bạn xây dựng đức tin trên căn bản
mỗi người có một linh hồn bất tử
đời đời không thay đổi. Khi không còn ai theo
đạo Phật, không còn ai đau khổ giữa
trần gian nầy là khi đạo Phật ca khúc khải
hoàn viên thành Phật sự. [1]
Đạo Phật, với triết lý cơ bản cho
rằng mọi vật đều không có tự tánh, không
một vật hay sự vật chi ly hay to lớn nào
đứng riêng lẻ tự nó mà thành (Tính Không); và cũng
chẳng có hiện tượng hay biến cố nào không có
sự kết hợp với yếu tố khác mà vận
động, biến hiện (Duyên Khởi), nên rõ ràng quan
niệm là chẳng có sự việc nào hay bất cứ
hiện trạng nào mang bản chất “oan” hay “không oan”
cả. Ngay như khi một đại đệ tử
của đức Phật Thích Ca có thần thông đệ
nhất, hiếu hạnh song toàn là ngài Mục Kiền Liên
bị bọn cướp giết chết thì cũng
chẳng có gì là oan trái nếu nhìn dưới nhãn quan và trí
tuệ Phật đà. Trái lại, trong chuỗi duyên
nghiệp trùng trùng thì bồ tát Mục Kiền Liên cũng
không thể nào thoát khỏi lưới nghiệp. Ngài
phải trả nghiệp tiền kiếp đã bỏ
đói cha mẹ giữa rừng sâu trước khi rũ
sạch tất cả nghiệp báo để đạt
sự giải thoát trọn vẹn.
Nhưng kể từ khi “thiền sư xuống núi”
để thõng tay vào chợ, mang đạo Phật từ
một phương trời cao viễn, từ cỗ xe
dê, xe hươu tiểu thừa, nghiêng vai vào gánh thế
sự bằng cỗ xe bò đại thừa [2]thì đạo Phật đã
đi vào cuộc đời hiện thực. Đạo vào
Đời để cứu đời và giúp đời
như cỗ xe bò chuyên chở nỗi khổ trần gian.
Mà trần gian nầy thì đầy dẫy chuyện được
gọi là oan khiên và thống khổ nên giải oan và hóa
giải cũng là một phần cứu khổ để
góp phần băng bó những vết thương tâm lý còn
tươi; những nỗi đau đời chưa lành
lặn; và những oan trái còn đè nặng tâm linh mà
thời gian chưa đủ chữa lành.
Không đợi đến khi ngài Huyền Trang trở
về sau chuyến Tây du mới có lễ siêu độ cô
hồn thường được coi như đã tổ
chức lần đầu tiên dưới thời nhà
Đường bên Trung Quốc. Thật ra, khái niệm
giải oan, mở trói, vớt sinh linh ra khỏi địa
ngục trong dòng sinh hoạt tâm linh của Phật giáo
đã có từ khi Mục Kiền Liên vận dụng
sức mạnh tổng hợp từ sự chú nguyện
của các bậc tu hành tôn túc để cứu
người mẹ độc ác ra khỏi địa
ngục A Tỳ. Và với dân tộc Việt Nam, từ
thời bình minh của lịch sử Phật giáo khi du
nhập vào đất Việt đã có hình ảnh "oan
Thị Kính" và vai trò "rửa oan" của cửa
nhà chùa rộng mở.
Tinh thần giải oan là tâm lý dân tộc
Giải oan - trong tín lý đạo Phật hay trong bất
cứ ý hướng cứu rỗi của tôn giáo nào -
vừa là triết lý sống vừa là đạo lý của
dân tộc Việt
Nam
.
Là một đất nước nhỏ bên cạnh
nước Trung Hoa đồ sộ ở phương
Bắc, với Chiêm Thành Chân Lạp đầy hiếu
động ở phương Nam; cộng với thế
chiến lược và kinh tế thuận lợi cho
nhiều thế lực viễn chinh từ phương Tây,
dân Việt muốn tự tồn phải biết tự hóa
giải. Sự hóa giải cao nhất vẫn là sự hóa
giải khởi nguồn từ trong chính mình. Với dân
tộc Việt
Nam
,
đấy là tinh thần tha thứ, cảm thông và bình
đẳng. Lịch sử đã ghi lại hầu
như sau mỗi cuộc chiến tranh, mỗi thời chinh
chiến, dẫu thắng hay bại, người dân
Việt vẫn coi trọng giá trị làm người dài lâu
hơn là thế tranh thắng tạm thời. Tinh thần
hóa giải của dân Việt được thể
hiện qua những Đại Giới Đàn Giải oan
cầu siêu độ cho những linh hồn đã chết
không phân biệt ta và người.
Lịch sử cận đại đã ghi lại rằng,
sau khi đại phá quân Thanh năm Kỷ Dậu (1789), vua
Quang Trung đã hạ chiếu truyền làm lễ
tưởng niệm các tướng sĩ hữu công và
tiến cúng cô hồn, giải oan cho các oan hồn uổng
tử của mấy vạn quân Thanh đã nằm xuống
trên đất nước ta. Vua Gia Long sau khi thống
nhất sơn hà cũng đã cho thiết đàn tràng siêu
độ cho quan quân tử sĩ và những oan hồn
đã nằm xuống trong cuộc chiến không phân
biệt bên nào (1802).
Nhiều danh nhân văn học Việt
Nam
đã góp phần trong
việc soạn thảo ra những bài văn tế bất
hủ để truy điệu những oan hồn và
tử sĩ. Tổng trấn Nguyễn Văn Thành soạn
bài “Văn tế tướng sĩ trận vong” và “Cô
hồn thập loại” bằng quốc âm. Thi hào Nguyễn
Du soạn “Văn tế thập loại chúng sanh”. Cụ
Nguyễn Đình Chiểu soạn “Văn tế sĩ dân
lục tỉnh” và “Văn tế vong hồn mộ
nghĩa”. Gần đây nhất, sau biến cố thất
thủ kinh đô (5-7-1885), người dân Thừa Thiên
Huế trong hơn một thế kỷ qua đã sử
dụng không biết bao nhiêu phương tiện nghi lễ
để cúng tế và mở đàn giải oan cho các cô
hồn tử sĩ đã bỏ mình trong cuộc nổi
dậy chống Pháp của vua Hàm Nghi bị thất
bại.
Niềm tin nhất quán trong tất cả các cuộc Trai
đàn bạt độ Giải oan là cầu nguyện cho
"âm siêu dương thái". Đối với các vong
hồn đã chết, dù chết bởi nhiều biến
cố và tình huống khác nhau, nội dung vẫn bao gồm
3 mục tiêu giải oan chính:
- Người
đã chết cần được người còn
sống ghi nhận: Vinh danh, thương tiếc,
cảm thông, chia sẻ và tha thứ;
- Giải
oan: Giải tỏa những oan ức, dằn vặt,
hiểu lầm, nghi kỵ, đọa đày và
động lực đã gây ra sự chết chóc oan
khiên;
- Siêu
thoát: Cầu nguyện cho các oan hồn uổng tử
được siêu thoát.
Đối với
người còn sống, Đàn tràng Giải oan mang
đến một nguồn tâm lý trị liệu
(psychotherapy) tập thể rất cần cho sự an hòa
trong cuộc sống. Nội dung cũng gồm 3
điểm chính:
- Ghi
nhận "nghĩa tử là nghĩa tận".
Chết là bình đẳng và trút bỏ mọi hận
thù, xung đột, ân cũng như oán, lại
đằng sau. Chết là hóa giải và tự hóa
giải giữa người ân và kẻ thù;
- Yên
tâm rằng, vong hồn của người thân cũng
như kẻ thù đều được siêu thoát,
không còn đi theo quấy phá hoặc nuôi mối hận
cừu chờ ngày báo oán;
- Giảm
thiểu hay xóa được gánh nặng tinh thần
về sự ám ảnh của quá khứ trong chính mình,
để cho tâm hồn nhẹ nhàng đối diện
với đời sống trước mắt và giúp ích
cho thế hệ mai sau.
Trong lĩnh vực tâm bệnh học (Psychopathology)
đương đại, chứng bệnh tâm thần
mới nhất được chính thức đưa vào Cẩm
nang chẩn trị bệnh tâm thần (DSM: Diagnostic and
Statistical Manual of Mental Disorder) lần đầu tiên vào
năm 1980 là chứng bệnh "PTSD" mới
được phát hiện từ các cựu chiến binh
Hoa Kỳ đã tham gia vào cuộc chiến Việt Nam. PTSD
là chữ viết tắt của Post Traumatic Stress Disorder. Xin tạm dịch là "Hội chứng hậu chấn
thương". Đây là căn bệnh tâm thần do
sự ám ảnh của một biến cố kinh hoàng nào
đó đã xảy ra trong quá khứ, đeo đẳng mãi
trong tâm thức -- hữu thức và vô thức -- làm cho
bệnh nhân thường xuyên sống trong một trạng
thái tâm thần bất ổn và nếu không chữa trị
sẽ thành rối loạn, điên khùng. Người
bệnh thường xuyên hay thỉnh thoảng ở trong
một trạng thái tâm lý đề phòng, hồi hộp, lo
sợ vu vơ, nóng giận bất thường, vui
buồn lẫn lộn mà không biết vì đâu. Trong
nhiều trường hợp nghiêm trọng, bệnh nhân có
thể trở nên điên tiết, bạo động,
tự tử, giết người, chống lại xã
hội, bất chấp pháp luật, chà đạp
đạo lý... mà không có ý thức về hành động
của mình. Đã có hàng nghìn cựu chiến binh Việt
Nam
người Mỹ đang được chữa trị
PTSD [3] . Trong lúc đó, người
Việt
Nam
nói chung
đã trực tiếp chịu đựng hậu quả
khốc liệt và lâu dài của Chiến tranh Việt
Nam
về cả hai mặt tinh thần và thể xác thì vẫn
còn chịu đựng Hội chứng Hậu chấn
thương trong im lặng.
Bao nhiêu con trẻ thuộc thế hệ thứ hai và
thứ ba sau cuộc chiến Việt Nam vẫn còn bị
khuyết tật, sinh ra dị hình, dị tướng, mang
bướu độc Hodgkin, bệnh liệt tuyến mãn
tính non-Hodgkin... bởi di lụy của gần 50 triệu
lít Chất độc Da cam (Agent Orange) [4] đã thấm vào da thịt
Việt Nam? Bao nhiêu thương tích của thể xác và tâm
hồn chưa lành với hơn 5 triệu sinh mạng
của quân và dân Việt cả hai miền Nam Bắc đã
nằm xuống trong suốt 30 năm chiến tranh?
Trước sự vắng bóng của một hình thức
chữa trị tâm lý thường xuyên và chuyên nghiệp
như ở phương Tây, người Việt bị
chấn thương hay mang hội chứng hậu chấn
thương lâu dài của tâm hồn và thể xác chỉ còn
biết nương tựa vào những người thân
nhất.
Cho tất cả mọi hình thức nhắc nhở, ghi
nhớ, chú nguyện cho người chết và giải
tỏa những ẩn ức tinh thần cho người
sống không phải chỉ có Phật giáo mà tất cả
mọi tôn giáo và tổ chức nhân đạo... đều
là cần thiết sau cuộc bể dâu nầy.
Trai đàn chẩn tế Giải oan của Thầy Thích
Nhất Hạnh và Tăng thân Làng Mai
Theo thông báo của Đạo Tràng Mai Thôn và truyền thông
quốc tế, cuối tháng 2 năm 2007, thầy Thích
Nhất Hạnh đã hướng dẫn một phái
đoàn tăng thân Làng Mai từ Pháp về Việt Nam,
phối hợp với Phật giáo trong nước
để thiết Trai đàn Giải oan tại Sài Gòn,
Huế và Hà Nội. Theo tinh thần thông báo, Đại Trai
đàn Giải oan nầy có tên là "Thủy lục
Giải oan Bình đẳng Cứu bạt". Mục
đích là để cầu nguyện sự giải thoát,
siêu độ cho những người đã chết
dưới nhiều hình thức như chiến tranh, tai
nạn, thiên tai... cũng như mong cầu sự an lạc
cho người sống sau cuộc chiến. Tinh thần
chủ đạo của Trai đàn nầy hay bất
cứ Trai đàn nào của Phật giáo đúng nghĩa
từ trước tới nay là tuyệt đối bình
đẳng, không phân biệt tuổi tác, giới tính, khuynh
hướng hay hoàn cảnh xuất thân.
Đứng về mặt tôn giáo, Trai đàn Bạt
độ Giải oan mang bản chất hành thiện trên
căn bản tâm linh và tinh thần. Khi một hệ
thống lý thuyết, suy luận biến thành đức tin
trong đời sống tâm linh thì vấn đề còn
lại là tin hay không tin - linh tại ngã, bất linh tại
ngã - mà thôi. Mọi sự tranh luận, so sánh, mổ xẻ,
phân tích về một đức tin tôn giáo hay một
nếp nghĩ tâm linh đã định hình của một
tập thể đều không có căn bản thực
hữu để đả phá hay lung lạc
được những người đã xây niềm tin
vững chắc trong chính mình.
Đứng về mặt tâm lý và xã hội Việt
Nam
,
cuộc sống khó khăn về nhiều mặt trong
những năm qua đã giới hạn khả năng
người Việt quan tâm đến đời
sống tâm thần (mental health). Nếp sinh hoạt tâm
thần nầy quan trọng ngang hàng với đời
sống thể chất mà đáng lẽ chúng ta cần
phải có sau một cuộc chiến tranh dài và khốc
liệt như cuộc chiến Việt
Nam
.
Thế giới bên ngoài đang nhìn về Việt
Nam
.
Và đa số những người Việt, kể cả
trong và ngoài nước, cũng đang nhìn về
Đại Trai đàn Bạt độ Giải oan của
thầy Nhất Hạnh và chư tăng ni trong bối
cảnh tôn giáo và tâm lý, xã hội Việt
Nam
.
Với đạo Phật, trai đàn chẩn tế
giải oan là một hình thức sinh hoạt tâm linh
thường xuyên và rộng khắp. Quy mô có thể khác nhau
từ một nhóm bạn bè, một gia đình, một dòng
họ, một làng xã cho đến từng miền,
từng giáo hội hay toàn quốc... tùy nghi phương
tiện, nhưng không phải là một "sự cố"
mới mẻ hay quá trọng đại và hiếm hoi trong
quá trình hoằng dương đạo pháp của Phật
giáo như nhiều người ngộ nhận. Trai đàn
chẩn tế giải oan không phân biệt còn là cách thể
hiện lòng từ bi, cầu giải thoát trong công hạnh
Bồ Tát của giới Phật tử xuất gia cũng
như tại gia.
Trên căn bản ngành Tham vấn (Counseling) và Tâm lý Trị
liệu (Psychotherapy) vốn đã phát triển sâu rộng
tại hầu hết các nước phương Tây mà
Việt Nam chúng ta còn vắng bóng - hay chỉ mới ở
trong giai đoạn nghiên cứu và tham khảo - các cuộc
cầu nguyện tập thể của mọi tôn giáo nói
chung và hình thức lễ nghi Đại Trai đàn Bạt
độ Giải oan của Phật giáo nói riêng có một
tác dụng tâm linh và tâm lý tương tự. Nếu ngành
tham vấn và tâm lý trị liệu phương Tây giúp
chữa trị những di chứng của nhiều căn
bệnh tinh thần do chiến tranh và tai ương nạn
khổ gây ra thì những cuộc thiết đại trai
đàn cũng giúp hóa giải những xung đột tâm lý
và niềm tin đã bị chao đảo, đổ vỡ
hay băng hoại. Đặc biệt nó có khả năng
an ủi hay giải quyết được bước
đầu những di lụy hận thù, uất ức, oan
nghiệt giữa người sống và người
chết; giữa người phía này và người phía
nọ.
Sống ở các nước tiên tiến phương Tây,
đa số người Việt đã dựa vào gia
đình và cộng đồng sắc tộc của mình
để chia sẻ, an ủi, hỗ trợ, tham khảo...
thay cho một hình thức tham vấn chuyên nghiệp
(professional counseling). Tương tự như thế, trong
bao năm qua, người Việt đã nương vào các
sinh hoạt tâm linh tôn giáo tại các nhà thờ, chùa
chiền, tự viện để làm chỗ dựa tinh
thần thay cho hình thức tâm lý trị liệu. Với cái
nhìn tích cực từ phía tâm bệnh học, Đại Trai
đàn Bạt độ Giải oan đang được
tổ chức rộng khắp trên toàn quốc là một sự
góp phần tích cực vào một cuộc "Tâm lý trị
liệu" tập thể mà những người đang
còn gánh chịu di lụy của cuộc chiến Việt
Nam trong thầm lặng đang cần.
Kết luận
Trong lịch sử truyền thừa của đạo
Phật, hình thức Trai đàn Bạt độ Giải
oan là một phương tiện độ sanh. Theo tinh
thần đạo Phật, đây hoàn toàn không phải là
một hành động ban phát "cứu rỗi" hay
"phán xét" mà chỉ là một tiến trình hành
đạo mang tính cách xả kỷ, hành thiện. Trong tinh
thần đó, hàng cao tăng đại đức chủ
trì nghi thức hành lễ đóng vai những hành giả cao
tuổi đạo và đầy đức độ trong
khuôn khổ của một tôn giáo phát nguyện từ tâm
đứng ra thực hiện. Hùng lực giúp Trai đàn
thành công không phải là hình thức trần thiết bên ngoài
mà chính là năng lực dốc lòng chú nguyện của
tất cả Phật tử và những người
bạn đạo. Phương tiện thiện xảo
giúp Trai đàn đạt ý nguyện xưa nay vẫn là
hạnh từ bi và đức khiêm hạ của chư
tăng ni và chư Phật tử phát tâm; tuyệt
đối không có chỗ đứng trong dòng suối tâm
linh cho sự phô trương hình thức hay thánh hóa nhân
vật và cường điệu tác dụng. Theo truyền
thống Phật giáo, ngay cả các bậc tăng ni tôn túc
chủ lễ trong các Đại Trai đàn cũng chỉ
xin nguyện được gieo duyên lành bằng cách chuyên
trì nương vào năng lực của Hồng ân Tam
bảo để chú nguyện hầu mong cải nghiệp
cho người và cho chính mình trên con đường tu
học hóa đạo, giúp đời. Đấng giác
ngộ như đức Phật ngày xưa đã thuyết
pháp độ sanh trong suốt 49 năm trời mà vẫn
khiêm cung ngỏ lời rằng: "Vạn pháp như
rừng cây trùng điệp mà những điều ta nói ra
thì chưa bằng nắm lá trong tay." Bởi thế,
tinh thần hành đạo của Phật giáo xưa nay
vẫn thường được ví von là "tường
vân, pháp vũ". Nghĩa là những hình thức lễ
nghi, cầu nguyện, thuyết pháp xiển dương
lời Phật dạy ví như "mây lành, mưa
pháp". Trong cơn mưa pháp, không phải ai cũng có
nhu cầu giống nhau và chấp nhận sự thẩm
thấu như nhau. Chẳng hạn như những
người đã chết hay còn sống sau cuộc
chiến tranh Việt
Nam
không phải ai cũng có nỗi thống khổ, chịu
đựng oan ức như nhau cần phải
được nguyện cầu hóa giải tập thể
chung chung. Tuy nhiên, trong tinh thần lục hòa và tương
tác của đạo Phật, chúng sanh tùy duyên mà hóa
độ nên cũng tùy căn cơ mà thẩm thấu khi
có dịp tiếp cận với cơn mưa lành chúc phúc
ấy.
Trai đàn Giải oan không phải là một cuộc "lên
đồng tập thể" để kéo tất cả mọi
đối tượng vào một cuộc hành hương
tâm linh đồng đẳng và đồng điệu
như sự tưởng tượng quá phong phú của
một thiểu số người chưa có thiện duyên
để tìm hiểu chín chắn. Thế nhưng lác đác
đó đây, vẫn có hiện tượng ngộ nhận
nghiêm trọng về một cuộc "giải oan tập
thể" như vậy. Xu hướng hiểu lầm
đó cho rằng, phải minh định đối
tượng nào cần phải “giải oan trước
đã”. Đấy là một yêu cầu nghịch lý vì xưa
nay tiếng chuông chùa không đi tìm đối tượng
nghe là ai mới gióng lên. Mọi sự phân biệt
đối xử như thế sẽ hoàn toàn đi
ngược lại với tinh thần bạt độ và
hồi hướng của nghi thức Trai đàn. Và
hậu luận tất nhiên của một sự ngộ
nhận tiêu cực như thế là những phản
ứng chủ quan biểu hiện ở nhiều mức
độ. Nhưng đáng tiếc nhất là phản
ứng ở ngoài lằn mức nhân văn như vọng ngôn,
quy chụp, mạ lỵ cá nhân người khác một cách
chủ quan, thô thiển và đầy cảm tính vội vàng
mà chữ nhà Phật gọi là vô minh. Đạo Phật ra
đời và tự nhận là một phương tiện
phá vô minh. Dám mong, các thiện hữu chưa quen với
phương tiện phá vô minh ấy sẽ thử dùng
để không nhận lầm phương tiện làm
cứu cánh, hay ngược lại.
Xin góp lời cầu nguyện cho tất cả những
người anh em - kẻ mất người còn - sẽ
phù hộ cho nhau và được nhìn nhau ngày một rõ
hơn với tấm màn vô minh buông xuống.
Trần
Kiêm Đoàn
California
, mùa Xuân 2007
[1]Richard Trexter, "Review of the Birth of
Purgatory". American Ethnologist; 1986.
[2]Kinh Pháp hoa. Phẩm 3: Ví dụ. Trí
Quang dịch. München - 1996
[3]Chalsam, H.W. (1998), The Chamber of
Memory: PTSD in the life stories of U.S Vietnam veterans.
Northvale
,
N.J.
:
Jason Aronson
[4]Dicks, S. (1995). From
Vietnam
to
Hell: Interviews with victims of Post-Traumatic Stress Disorder.
Jefferson
,
NC
.
:McFarland