VIETNAM
NEWS NETWORK (VNN)
P.O. Box
661162
Sacramento
,
CA
95866
Phone & Fax: 916-480-2724
Email: vnn@vnn-news.com
Website: www.vnn-news.com
**********************************
Bài Vở Hàng Ngày
Ngày 02 Tháng 08 Năm 2007
**********************************
1- Bình Luận Việt Nam
- Chuyện Lạ Pháp Quyền
Trần Khải
2- Tin Tức Quốc Nội
- Ni Sư Chùa Nam Ðào Gửi Ðơn Tố Cáo
Chính Quyền CSVN Quận 2 Sài
Gòn Ðập Phá Chùa.
3- Diễn Ðàn Hải Ngoại
- Nhớ về lòng tin
Thầy-Chúa tại Phú Quý và Hàm Tân, Bình Thuận nhân
mùa Vu Lan 2007
Mường Giang
4- Tham Khảo
- Khuông
mẫu hiến pháp của một quốc gia đa dạng trong
tiến trình thành lập chính phủ
Nguyễn Học Tập
5- Câu Chuyện Việt Nam
Văn Quang
6- Văn Học Nghệ Thuật
- Nén hương nhớ mẹ
Tâm Thanh
**********************************
1- Bình Luận Việt Nam
- Chuyện Lạ Pháp Quyền
Trần Khải
(VNN)
Nhu cầu nhà nứơc pháp quyền đã được nhiều viên chức Hà Nội nói từ lâu rồi, chứ chưa cần tới các nhà dân chủ phải lên tiếng. Nhưng hiểu pháp quyền như thế naò mới là vấn đề, đó là chưa nói gì tới cách hành xử và cơ chế kiểm tra pháp quyền.
Nhà nứơc cũng nói công khai về pháp quyền, chứ không giấu giếm gì. Thậm chí, các nhà nghiên cứu Hà Nội cũng thực sự có suy nghĩ, có phân tích, thậm chí còn sử dụng các chữ rất là một thời cấm kỵ như nhóm chữ "xã hôị dân sự..." Thí dụ, tìm đọc một bài cũ của GS. Tương Lai, trên tạp chí Nghiên
cứu Lập pháp ở Hà Nội thời năm 2005 có tưạ đề rất bắt mắt là "Nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự" - nghĩa là chưa cần đọc, đã thấy có ước mơ dân chủ rồi. Nhưng vẫn là luôn luôn có những khoảng cách giữa trí thức (dù là trí thức một thời xã hội chủ nghĩa, và bây giờ là đổi mới) và guồng máy chuyên chính rất là xa. Thế cho nên, pháp quyền vẫn luôn là chuyện lạ ở quê nhà.
Như bản tin mới tuần qua
trên đaì RFA ghi nhận:
"Quốc hội Việt
Nam
trong phiên họp hôm thứ Tư
25-7-2007
đã
bỏ phiếu bầu lại Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thêm một nhiệm kỳ nữa.
Ông Nguyễn Tấn Dũng được bầu vào chức vụ Thủ Tướng chính phủ vào ngày 27 tháng 6 năm 2006 trong kỳ họp Quốc Hội khóa 11
năm ngoái.
Theo tiến trình thường lệ, ông Dũng sẽ thay mặt chính phủ mới để nhậm chức vào ngày 2 tháng 8 tới đây.
Quốc Hội khóa 12 này cũng chấp thuận cho ông
Trương Hòa Bình và ông Trần Quốc Vượng lãnh nhận chức vụ Chánh Án Tòa Án Nhân Dân Tối Cao và Viện Trưởng Viện Kiểm Sát..."
Xin nói cho rõ, để độc giả hiểu chuyện lạ: ông Trương Hòa Bình là Thứ Trưởng Công An, và bây giờ lên nắm Tòa Án
Tối Cao.
Theo hồ sơ trên mạng Ðại Biểu Quốc hội khoá X,
XI, thì ông có họ và tên khai sinh là Trương Hoà Bình
"...Giới tính:
Nam
Ngày sinh:
13/04/1955
Dân tộc: Kinh
Tôn giáo: Không...
Nghề nghiệp, chức vụ: Tổng Cục phó Tổng Cục Xây dựng lực lượng - Bộ Công an, Uỷ viên Uỷ ban pháp luật của Quốc hội
Nơi làm việc: Bộ Công an
- Hà Nội." (hết trích)
Nghĩa là bây giờ, theo
phân công của Ðảng CSVN, ông Trương Hòa Bình sẽ phải làm trò phân thân, một kiểu phép lạ của các sư Tây Tạng khi phải cần có mặt ở nhiều nơi cùng một lúc.
Nghĩa là, sẽ có một ông Trương Hòa Bình ngồi ở Quốc hội (tức là chức năng Lập Pháp), một ông Trương Hòa Bình ngồi ở Bộ Công An (tức là chức năng Hành Pháp), và một ông Trương
Hòa Bình ngồi ở Tòa Án Tối Cao (tức là chức năng Tư Pháp).
Ai dám bảo rằng cán bộ CSVN
không biết biểu diễn thần thông kiểu như các sư trên núi Hy Mã Lạp Sơn? Ít nhất, ông Trương Hòa Bình cũng có môn võ Tam Quyền Hợp Nhất. Nghĩa là,
trong khi thế giới đòi hỏi Tam Quyền Phân Lập, tức 3 quyền Hành Pháp, Tư Pháp, Lập Pháp phảỉ tách rời, thì ông Bình gom hết về một chiêu
thôi. Ai không chịu thì cứ theo dân oan mà khiếu nại.
Ðúng ra là đã có nhiều ngưòời khiếu nại rồi, nhưng laị là khiếu nại các vụ khác.
Thí dụ, như lời tố cáo của ông Bùi
Xuân Sinh trong một thư tố cáo ngày
5/10/2006
gửi lên "Các đồng chí lãnh đạo Bộ Công an". Ông viết, trích:
"Xin tự giới thiệu tôi là
Thượng tá Bùi Xuân Sinh, hiện đang công tác tại Công an
TP. Hồ Chí Minh. Với 54 tuổi đời, 35 tuổi ngành, cả cuộc đời tôi giành trọn cho Ðảng, cho Ngành và không phải hổ thẹn...
Về ông Trương
Hoà Bình thì tôi khẳng định là người tài ít, cơ hội nhiều. Dựa vào hai ông trùm maphia chính trị Bùi Quốc Huy,
Nguyễn Khánh Toàn mà đường quan lộ của ông Bình lên như diều gặp gió....
...Ðiều đáng ngạc nhiên
là ông Trương Hoà Bình luôn khoe khoang là thạc sỹ luật, nhưng tất cả mọi người cùng công tác với ông Bình ở A25, Công an TP. Hồ Chí Minh, Viện kiểm sát TP.
Hồ Chí Minh đều khẳng định ông Trương Hoà Bình chưa bao giờ học một trường Ðại học chuyên ngành luật học nào cả..." (hết trích)
Hay như lời tố cáo khác
từ "Thượng tá Nguyễn Văn Ðô - Tổng cục III - Bộ Công an" viết "trong những ngày Quốc khánh năm 2006", trích:
"...Người tôi đang muốn nói
chính là ông Trương Hoà Bình, Thứ trưởng Bộ Công an. Cho đến giờ, có không ít cán bộ công an vẫn đang thắc mắc không
hiểu vì sao đường thăng tiến của ông Trương Hoà Bình lại có thể nhanh như vậy... (...) Ông Trương Hoà Bình chỉ bắt đầu thoái hoá, biến chất khi trở thành "trợ lý" đắc lực cho ông Bùi Quốc Huy (nguyên Thứ trưởng Bộ Công an, đã bị xử lý trong vụ án Năm Cam), khi đó ông Bình là Cục phó A25. Chính ông Bùi Quốc Huy đã "đạo diễn" đưa ông Trương Hoà Bình về làm Phó giám đốc Công an TP. Hồ Chí Minh nhằm thao túng toàn bộ hoạt động của Công an TP. Hồ Chí Minh. Không biết có phải gần mực thì đen không,
nhưng đã có rất nhiều vụ án đã bị làm "chìm xuống", bỏ lọt tội phạm..." (hết trích)
Chuyện thật hư tranh
quyền trong nội bộ công an thì chúng ta không biết hết được. Nhưng sự thực trước mắt là cả thế giới đều thấy: ba quyền phân lập chỉ là chuyện giễu bất tận ở Hà Nội.
Chưa hết, ông Trương
Hòa Bình mới đây còn được giao cho nắm Tổng Ðàn của võ phái lớn nhất Việt
Nam
và đang có ảnh hưởng toàn cầu: môn võ Vovinam.
Bản văn nhan đề "Bức tâm thư của Liên đoàn Việt Võ Ðạo Úc Châu" ký tên ông Lê Thành Nhân - Liên đoàn trưởng VoViNam Việt Võ Ðạo tại Úc châu, cho biết chuyện hết sức đau lòng, trích:
"... Ngày 17/02/2007, một thế tấn công mới của nhà cầm quyền cộng sản tại Việt nam là: ông Phạm Gia
Khiêm, Bộ trưởng ngoại giao và ông Nguyễn danh Thái, Chủ nhiệm ủy ban TDTT tuyên bố thừa nhân VoViNam là QUỐC VÕ, đồng thời sẽ nhanh chóng thành lập Liên đoàn
VoViNam quốc gia, Liên đoàn VoViNam Á châu, Liên đoàn VoViNam quốc tế với chiêu bài VoViNam được đưa vào tranh giải tại "Asian Indoor Games 2009" tổ chức tại Hà nội.
Với bổn cũ soạn lại, lần này trở thành quốc võ cho
nên nghe đồn rằng, nhà cầm quyền cộng sản tại Việt nam đã cử một người là Trung tướng Trương hòa Bình, Thứ trưởng Bộ Công An làm Chủ tịch Liên đoàn VoViNam Việt nam, vào ngày 15/07/2007, nếu như không có
gì thay đổi vào phút chót. Người ta thường nói, ở Việt nam hiện nay, có ba lực lượng chính chi phối là: Ðảng cộg sản, Công an và Quân đội, như vậy với Trung tướng Công an là Chủ tịch thì Bằng đẳng cấp của VoViNam trong nước cấp cho môn sinh sẽ được ký bởi một người chẳng học VoViNam, nhưng là Thứ trưởng Bộ Công An, quả là một sự xỉ nhục cho võ học..." (hết trích).
Thực sự, chơi thế thì nhà
nứơc CSVN muốn chơi với ai?
Ðã cho gom hết tam quyền Lập Pháp,
Hành Pháp, Tư Pháp vào tay một tướng công an rồi, bây giờ lại giao trọn Tổng Ðàn võ phái lớn nhất VN cho ông coi sóc. Sao chưa phong cho ông này nắm luôn Hội Nhà Văn, Hội Nhà Thơ, và các
giáó hội trong nước?
Thế mới biết, cái gọi là pháp
quyền lúc nào cũng là chuyện lạ, và cực kỳ khó hiểu ở quê nhà.
=END=
2-
Tin Tức Quốc Nội
- Ni Sư Chùa
Nam
Ðào Gửi Ðơn Tố Cáo Chính Quyền CSVN Quận 2 Sài Gòn Ðập Phá
Chùa.
ÐƠN TỐ CÁO KHẨ
N CẤP
Chính quyền Quận 2 TP.Hồ Chí Minh đập phá chùa
Nam
Ðào chà đạp hiến chương tôn giáo - Vi phạm pháp luật
Kính gởi:
- Ông Nông Ðức Mạnh tổng bí thư đảng CSVN
- Ông Nguyễn Minh Triết Chủ Tịch Nước CHXHCNVN
- Ông Nguyễn Tấn Dũng Thủ Tướng Chính Phủ
- Ông Trương Vĩnh Trọng Phó Chủ Tịch Trưởng Ban Chống Tham Nhũng Chính Phủ
- Ông Giám Ðốc Bộ Công An
Hà Nội
- Ông Trưởng Ban
Tôn Giáo Chính Phủ
- Ông Phạm Thế Duyệt Chủ Tịch Ðoàn Chủ Tịch Mặt Trận Tổ Quốc Việt
Nam
- Ông Bí Thư Thành ủy Thành
Phố Hồ Chí Minh
- Ông Chủ Tịch UBND
Thành Phố Hồ Chí Minh
- Ông Chủ Tịch UB Mặt Trận Tổ Quốc Việt
Nam
Thành Phố Hồ Chí Minh
- Ðoàn Ðại Biểu Quốc Hội Thành
Phố Hồ Chí Minh
- Ông Huỳnh Ngọc Thành Trưởng Ban Tôn Giáo Tphcm
Kính thưa ông, tôi là Ni sư THÍCH NHƯ ÁNH (thế danh
Nguyễn Thị Kìa) trụ trì chùa Nam Ðào, tọa lạc tại phường Bình Trưng Tây, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh làm đơn khẩn khiết kêu cứu lên ông một việc như sau:
Năm 1993, tôi và hai Ni sư Thích Nữ Quảng Tú,
Thích Nữ Ðồng Tâm được Hội trưởng Hội đồng tương tế Nam Ðào thỉnh về trụ trì chùa Nam Ðào, có sự đồng ý của Ban đại diện Phật giáo Quận Thủ Ðức, đồng thời UBMT Tổ quốc Quận Thủ Ðức đã có văn bản số 46/CV ngày 14/06/1995 chấp thuận cho chùa Nam Ðào tiếp tục hoạt động dưới sự quản lý của Hội Phật giáo Việt Nam - trực tiếp là Ban đại diện Hội Phật giáo Quận Thủ Ðức (kèm theo văn bản).
Năm 1997, Thành phố Hồ Chí Minh
tách nhập không ảnh hưởng gì đến việc hoạt động tín ngưởng của chùa
Nam
Ðào. Chùa Nam Ðào vẫn có tên
trong danh mục thư viện Thành phố Hồ Chí Minh, đúng với sự khẳng định của Ban Tôn giáo Thành phố Hồ Chí Minh: "Thật sự đây là
ngôi chùa mang tên Nam Ðào, tên của bà con đồng hương Nam Ðào, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Ðịnh" (kèm theo công văn số 320/CV-TG).
Trong lịch sử hoạt động tôn giáo chùa Nam Ðào, nơi đây còn là nơi chứng vũ khí,
nuôi giấu cán bộ tiền bối cách mạng và bộ đội thuộc đơn vị J9/A20 quân khu Sài Gòn (văn bản số 149/CV)
của UBMTTQ Quận 2 ghi nhận thành tích của chùa và xác nhận của đơn vị bộ đội J9/A20 (đính kèm).
Chùa
Nam
Ðào có nguồn gốc rõ
ràng, được sự chấp nhận của chế độ cũ (kèm theo giấy phép xây dựng năm 1961) và chế độ mới vẫn thừa nhận là tư viện Thành phố Hồ Chí Minh trực thuộc Hội Phật giáo Việt
Nam
.
Kính thưa ông, từ khi chùa
Nam Ðào được tách về Quận 2, bộ máy công quyền Quận 2 đã gây khó dễ cho hoạt động của chùa, tìm mọi cách phá chùa, để chiếm đất đai, tài sản chùa Nam Ðào, giải tỏa chùa Nam Ðào không đền bù theo pháp luật.
Ngày 29/8/2006, bộ máy quyền lực của Quận 2 đã bất chấp mọi sự kêu cứu của các Ni
sư và bá tánh thập phương, hùng hổ xông vào, tàn bạo vào đập phá chùa, xếp tượng Phật và các phương tiện lễ nghi tôn giáo vào một xó, ra lệnh đuổi các Ni
sư ra khỏi chùa, ra lệnh "cấm không được kêu cứu, kêu cứu sẽ tống vào tù"... Ni sư chúng tôi sợ hại và đau đớn không còn chỗ để sống, để hành đạo. Phật tử địa phương trong và ngoài nước không còn nơi lễ Phật nương
tựa nơi cửa thiền.
Thưa ông, chính quyền Quận 2 đã chà đạp lên hiến chương tôn giáo của Chính Phủ. Họ coi thường pháp luật,họ đã đẩy các Ni sư Phật tử chúng tôi vào con đường cùng.
Ai là người xem xét những hành động sai trái của họ?
Chỉ có Ðảng, Nhà nước, Chính phủ, Mặt trận, các cơ quan pháp luật và quý ông người mà nhân dân tin yêu, các Ni sư Phật tử chúng
tôi ti tưởng kính trọng mới có thể xem xét giải quyết trả lại cho chúng tôi sự công bằng.
Từ năm 2006, chúng tôi nhiều lần gửi đơn
lên các cơ quan chức năng của Trung ương, của Thành phố Hồ Chí Minh và nhiều tờ báo trong nước và ngoài nước đã đưa tin phê phán hành động sai trái của Quận 2 trên
công luận, nhưng không có nơi nào trả lời? Chúng tôi chỉ xin các cơ quan chức năng giải quyết cho thật sự rõ ràng minh bạch theo pháp luật việc phá chùa, cướp đất, không đền bù khi giải tỏa của Quận 2; là đúng hay sai? Nhưng tất cả đều rơi vào im lặng ghê sợ.
Kính thưa ông, chúng tôi hy vọng được ông đọc hết đơn thư này, cứu xét cho nỗi oan khiên của chúng tôi, Ni sư Phật tử chúng tôi xin tỏ lòng biết ơn quý ông; cầu trời, phật phù hộ cho quý ông và gia đình mạnh khỏe, hạnh phúc để cứu dân ra khỏi đau khổ, đưa đất nước giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh như lời mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ðảng Cộng Sản Việt Nam.
Kính chào trân trọng
Kính đơn (ký tên)
Ni sư Thích Nữ Như Ánh
Ðịa chỉ: Chùa
Thiên Bản 241 Võ Văn Tần
Phường 5, Quận 3,
Thành phố Hồ Chí Minh
=END=
3- Diễn Ðàn Hải Ngoại
- Nhớ về lòng tin Thầy-Chúa tại Phú Quý và Hàm Tân, Bình Thuận nhân mùa Vu Lan 2007
Mường Giang
(VNN)
Viết tặng Khai Trinh, Mỹ Khê, Anh Vũ và Nguyễn Văn Ðồng (Phú Quý).
Ai cũng biết Bình
Thuận-Phan Thiết từ ngày thành lập đến nay, phần lớn gắn liền với cuộc sống miền biển. Do trên khi những ngư dân đầu tiên đến lập nghiệp, dựng làng, đều không quên những vị tiên hiền, những người đã có công tạo lập và hình thành phát triển nơi dung thần mới. Ðình
làng, dinh vạn là những nơi người dân tưởng nhớ ghi ơn, những thần thánh siêu hình đã mang đến sự ấm no, an bình cho muôn người. Vì vậy, nhắc đến Bình Thuận, Phan Thiết là nói tới Ông Nam Hải, Ông Quan Thánh, Bà Thiên Hậu, Thầy Chúa,
Cô Cậu.... bên cạnh Phật, Chúa trong tín ngưỡng truyền thống lâu đời của dân tộc Việt.
Ðiều này cũng dễ hiểu, ngày xưa khi đến định cư tại miền duyên hải Bình Thuận, từ Ba Ngòi vào tới Cù My, đều là những vùng đất hoang vu, biển khơi bát ngát trước mặt, còn sau lưng là giải Trường Sơn chập chùng, chạy dài từ bắc tới nam với núi cao rừng rậm, đầy ác thú, trăn rắn ma thiêng nước độc.
Trong hoàn cảnh đơn độc, coi như bị đem con bỏ chợ, chỉ còn cách
dùng sức người chống chọi với thiên nhiên, trên bờ là nạn cọp voi,
phá hại làng xóm, giết chết con người, còn dưới biển cũng thường xãy ta bảo tố đắm ghe thuyền, cũng như bị cá mập cá xà, đẻn độc tàn hại, làm cho con người cảm thấy bé nhỏ, yếu đuối trước nghịch cảnh, nên họ đã tự đi tìm một lối thoát là tin vào những quyền lực vô hình để cầu che chở. Ðó là lý do giải thích sự song hành, trong nguồn tín ngưỡng đa dạng của người Bình Thuận qua ba thế kỷ lập nghiệp trên vùng đất này.
1- Bà Chúa Ngọc đang thờ cúng tại Phú Quý là ai?
Suốt duyên hải miền Trung,
từ Thừa Thiên vào tới Bình Thuận, hầu như nơi nào cũng đều thờ cúng Bà Chúa Ngọc, kể cả Phú Quý, một hải đảo cách xa thành phố Phan Thiết hơn trăm cây số. Theo truyền thuyết dân gian, thì Bà Chúa có tiếng là linh ứng hiển hách,
hay cứu nạn phò nguy nhưng đồng thời rất nghiêm khắc với những kẻ nào dám xúc phạm đến miễu thờ Bà. Có điều tới nay, dù người trần gian vẫn một lòng sùng kính, nhưng mấy ai biết rõ Bà là người Tàu, Việt hay Chàm, ngoài việc thờ cúng Bà
như một vị nữ thần, bên cạnh Bà Chúa Xứ Thiên Y A Na.
Nhờ các công trình nghiên cứu về tín ngưỡng dân gian của người Việt, nên nay ta có thể biết được tên gọi đầy đủ của Bà, qua bài vị trong miễu thờ tại Hòn Tranh (Phú Quý) "Cung thỉnh Thiên Y A Na, Diễn Bà Chúa
Ngọc, quang linh tuý tinh, hoằng huệ thượng đẳng thần". Ðồng thời, tên Bà cũng khắc trên nhiều bài vị, cũng như các bài văn tế chữ Hán, khi cúng Thần Hòn Tranh, ọng Nam Hải, Thành Hoàng.... Do đó các nhà biên khảo đều xác quyết Bà là người Chiêm Thành, tức Nữ Thần Thiên Y A Na Diễn Ngọc Phi, đã được cả người Chàm lẫn Việt tôn kính và Triều đình Nhà Nguyễn sắc phong chức Thượng Ðẳng Thần.
Thật ra tên gọi Thiên Y
A Na Diễn Ngọc Phi, được lưu truyền tới nay, là căn cứ vào cách viết của Hán tự. Riêng trong hệ thống thần linh của người Chàm, ta cũng biết được một cách đại khái, nhờ tấm văn bia do Phan Thanh Giản lập tại Tháp Bà ở Nha Trang, vào năm 1855, đời Tư Ðức thứ 9, thờ Nữ Thần Po Nagar, qua tên chử Hán là Thiên Y.
Nhưng theo các truyền thuyết và nhiều truyện cổ dân gian
của người Chiêm, thì hai nữ Thần Po Nagar và Thiên Y A Na, lại là hai nhân vật khác
nhau. Theo bài kinh cúng thần còn lưu tại Tháp Bà, thì Po Nagar là một vị nữ thần sáng tạo ra thế giới. Trái lại Nữ thần Thiên Y
A Na được Phan Thanh Giản ghi chép trên bia đá ở Tháp Bà, là một cô gái,
nguyên là một tiên nữ bị đọa nên xuống trần gian, làm con nuôi trong một gia đình trồng dưa ở vùng Ðại An, tỉnh Khánh
Hòa. Nhờ linh hiển cứu giúp đời, nên dân chúng trong vùng lập đền thờ 6 tầng để cúng tế nhớ ơn, qua danh hiệu Thiên Y A Na, Diễn Bà Chúa Ngọc Thánh Phi, ảnh hưởng khắp miền Trung, nên nơi nào cũng có miễu thờ.
Tuy nhiên trong hệ thống thần linh của người Việt, từ trước tới nay không hề có một vị nữ thần nào tên Thiên Y A Na. Trong lúc đó, người Chàm cũng có một truyện cổ dân gian, nói về sự tích Thiên Y A Na, với tình tiết như chuyện kể của người Việt, chỉ khác danh xưng của tiên nữ là Mukjuk (có nghĩa là Bà Ðen), tương xứng với tượng nữ thần Thiên Y, mà dân Việt tại đảo Phú Quý đã thờ ở Hòn Tranh, qua danh hiệu 'Hắc tướng thượng đẳng thần'.
Nhưng nếu Thiên Y
A Na đúng là nữ thần Mukjuk, vậy thì sự liên hệ giữa hai nữ thần Po Nagar và Thiên Y Mukjuk ra sao? Theo cách giải thích của người Việt, căn cứ từ sự tích của Bà Chúa Liễu Hạnh, trong Ðạo thờ Tam Phủ, đã hóa thân cùng lúc, để trở thành
các Mẫu Thương Thiên (Thiên Phủ), Thượng Ngàn (Nhạc Phủ) hay Mẫu Thoải (Thủy Phủ). Vì vậy nên Mukjuk cũng đã hóa thân thành nữ thần Po Nagar, Thiên Y A Na Diễn Ngọc Phi....
Tóm lại tên đầy đủ của vị nữ thần mà người Chàm lẫn Việt đang thờ cúng khắp nơi, cũng như tại đảo Phú Quý, tỉnh Bình Thuận là "Po Ya Inư Nagar hay Po Yang Ya Inư Nagar. Từ đó người Trung Hoa đã dịch:
Po
hay Yang (Thiên Thần), còn
Ya Inư Nagar lại được phiên âm theo Hán-Việt là Y A Na., coi nhu tất cả các vị thần trên,
chỉ là một qua sự hóa thân của nhiều tên gọi.
+ Hải Ðảo Phú Quý:
Không phải là tình cờ mà người ta gọi Phú Quý là Hòn Thu. Vì tên này đã dựa vào
hình thế của đảo nhìn từ xa rất giống con cá thu và ở đây, ngày xưa cũng có rất nhiều loại cá này. Cũng từ những ý nghĩ bình dân mộc mạc ấy, ngư dân bản địa đã gọi Phú Quý là Ðảo Mực, vì thời gian gần đây, mực là nguồn lợi chính của dân trên đảo.
Ra thăm Phú Quý, dù đi đêm hay
ngày cũng đều có những đam mê thích thú. Thật vậy nếu ta rong
thuyền về đêm, thì sẽ được hưởng cái cảnh huyền diệu của những dãy đèn nê ông câu mực tỏa sáng một góc trời. Ánh đèn ảo huyền lung linh theo sóng gió, khiến cho ta như đang lạc vào một thành
phố trên biển. Còn ban ngày thì được ngắm cảnh trời nước mênh mông, con tàu nhỏ bé, con người cô độc, làm cho ta cảm thấy cuộc sống thật là bấp bênh tội nghiệp.
Dân chúng sống trên đảo, vì hoàn cảnh, nên phải vượt biển từ Phú Quý vào Phan Thiết bốn mùa tám tiết, ngoại trừ khi có bảo tố. Riêng
những ai cần tới đảo, người ta hay chọn mùa sóng êm từ sau Thanh Minh tới Tết Trung Thu. Bởi vậy người trên đảo mới thuộc làu một bài vè nói về thời tiết biển Bình Thuận, mà ông cha đã truyền lại từ lâu đời: "tháng giêng động dài, tháng hai động tố, tháng ba nồm rộ, tháng tư nam non, tháng năm có gió hợp Hòn, thổi lòn Nam Cú.... " Núi Ba Hòn, Tà Cú là những địa danh quen thuộc của người địa phương. Từ Phan Thiết đi Phú Quý, trung bình mất 8 giờ và sự khởi hành cũng được căn cứ theo con nước và mùa trăng. Tháng bấc, ghe cập bến Tam Thanh còn mùa nam thì vào lạch Long Hải. Thuyền chạy được 2/3 đường, có thể nhìn thấy mỏm núi Cấm nhô lên như chiếc vung và ngọn hải đăng ở phía sau. Ðây là hai điểm tựa mà người xưa khi chưa có hải bàn, nhắm vào đó mà định hường, nên không bao giờ bị lạc.
Hiện Phú Quý là một huyện đảo, nằm ngoài khơi Phan Thiết về phía đông nam chừng 56 hải lý, có diện tích 16,52 km2 và dân số tính tới cuối năm 2002 là
22.000 người, trữ lượng hải sản của ngư trường ước tính chừng 58.000 tấn và khả năng khai thác hằng năm là 20.000 tấn. Trươc đó vào năm 1886, đảo có 11 làng nhưng dân số chỉ có 600 người. Năm 1930-1954, đảo còn 9 làng nhưng dân số cũng chỉ có 900 người. Thời VNCH, đảo trở thành Nha Ðại Diện (1955-1958), quận Phú Quý (1958-1961), rồi thuộc Tuy
Phong (1961-1966) và là Nha Phái Viên Hành Chánh, quận Hàm Thuận(1966-tháng
4/1975).
Phú Quý nằm giữa biển khơi nhưng có nhiều phong cảnh đep, vẽ nên một bức tranh
thủy mạc tuyệt vời của quê hương Bình Thuận, khiến cho nhiều người dù không sinh trưởng nơi cùng trời cuối đất này, cũng phải bâng khuâng thương nhớ chốn quê nhà, mỗi khi có dịp ra chơi biển.
Theo gia phả của Huỳnh tộc, một dòng họ lớn ở đây, thì
vào năm 1761 nhằm đời Cảnh Hưng thứ 22, tổ của họ này là Huỳnh văn Ðây, trong một chuyến đánh cá chuồn, bị bão tố trôi xuống phương nam và tắp vào đảo. Cũng theo lời ghi lại, thì đảo lúc đó có thổ dân sinh sống. Ðảo rất lớn nhiều núi rừng, đất đai có thể trồng trọt canh tác, đầy bóng dừa và đặc biệt ngoài biển có rất nhiều tôm cá. Thế là đất lành chim đậu, người trước rủ người sau, lần hồi thành xóm làng đông đúc.
Ðược tạo thành bởi một chuỗi đảo, nên ngoài hòn lớn Phú Quý, còn có một số cù lao nhỏ khác là
Hòn Ðen, Hòn Ðỏ, Hòn Trứng, Hòn Trào, Hòn Tranh.... Theo các nguồn sử liệu hiện còn,
qua hàng trăm năm lịch sử, đảo Phú Quý cũng được thay đổi tên gọi nhiều lần như Cổ Long, Thuận Tình, cù lao Khoai Xứ, cù lao Thu, Hòn Lớn. Tất cả những cái
tên dùng để gọi đảo, đều hàm súc ý nghĩa, chứ không phải bâng quơ, chẳng hạn như nhà Nguyễn gọi là Cổ Long vì từ phía đông nhìn vào đảo, thấy giống như hình rồng, mà đầu là đỉnh núi Cao Cát (85m), còn đuôi là núi Cấm (108m).
Thời kỳ Pháp đô hộ VN, thì đặt tên đảo là POULO CÉCIR DE MER.... Gần đây lại tìm thấy nhiều rìu, cuốc và vật dụng làm bằng sắt thô,
cho thấy trên đảo đã có dấu vết người ở từ lâu đời. Dân đảo hiện nay, hầu hết là hậu duệ của lớp người Ðại Việt, sống dọc theo duyên hải Trung Phần từ Thanh Hóa vào tới Phú Yên, trong giai đoạn 1627-1672, thời Trịnh Nguyễn phân
tranh. Nhà cửa trên đảo trước đây thường làm theo kiểu dân Bình Ðịnh, mái lợp bằng ván dừa, trét đất nên rất mát. Trong lớp người khai phá này, còn có quân sĩ nhà Minh, vì không đầu hàng Mãn Thanh, cũng vượt biển từ bên Tàu tới đây tá túc, lâu ngày cũng trở thành
dân bản địa. Trên đảo, dưới chân núi Cao Cát, hiện còn đền thờ công chúa Chiêm Thành là Bàng Tranh, theo truyền thuyết dân
gian là bị đầy tới đây vì chống lại triều đình, đó cũng là dấu vết chứng tỏ đảo Phú Quý, buổi trước thuộc chủ quyền của người Chàm.
Bao đời, người Phú Quý chủ yếu sống bằng nghề biển, vì vậy ngoại trừ hải sản có tại địa phương, còn phần lớn các nhu yếu phẩm khác đều mua từ đất liền, cho nên giá cả rất đắt đỏ nhất là các vật dụng xây cất như gạch ngói, tole.... Ðảo nguyên là một núi lửa có từ nguyên đại đệ nhất, đã ngưng hoạt động từ lâu, nên đất đai thuộc loại Féralit nâu đỏ, rất thích hợp với bông vải, mè, bắp và các loại đậu như đậu phộng, dùng để ép dầu thắp đèn. Quanh đảo có trông nhiều cây ngủ trảo, để dùng làm củi đun và chế thuốc trị phong hàn. Ngoài ra còn trồng dứa, vừa làm đê chắn cát
gió, vừa lấy sợi để đan võng.
Ngày xưa trên đảo chưa có đường xá, việc đi lại rất khó khăn, đàn ông đi biển để nuôi gia đình và kiếm sản phẩm dâng nạp cho triều đình. Bởi vậy công việc nội trợ đều do phụ nữ cáng đáng, từ việc tầm tang cho tới ruộng rẫy. Do lối đi chật hẹp phải luồn lách bụi rậm, không thể sử dụng đôi gánh như ở đất liền, vì vậy nên đã dùng chiếc gùi thay thế, vừa thuận lợi đi lại mà còn được rãnh đôi tay. Cho nên mới phát sinh câu vè: 'Buồn buồn ra đảo mà vui, đi đâu cũng thấy cái gùi sau lưng'.
Vùng biển từ Phan Thiết tới Phú
Quý, được đánh giá là rất khắc nghiệt, hay có bảo tố bất thuờng, kể cả 'tháng
ba, bà già cũng đi biển'. Dù hiện nay, tỉnh có hai chiếc tàu quốc doanh trị giá trên 10 tỉ đồng tiền Hồ, mỗi tàu chở được tới 100 hành khách với 50 tấn hàng hóa, có thể vượt sóng an toàn khi biển động lên tới cấp 6-7. Nhưng theo lời thuyền trưởng Nguyễn văn Ðịnh, đang điều hành con tàu khách chạy đường biển Phan
Thiết-Phú Quý, mang tên BT-16, cho biết tàu này không thích
hợp vượt biển, vì được đóng để chạy trên các tuyến đường sông nội địa mà thôi. Tệ hơn là sự tắc trách của cơ quan Ðăng Kiểm, dám cấp giấy phép
cho một con tàu chở khách, không đạt được các tiêu chuẩn an toàn vì dụng cụ thiết bị không thích hợp như phao cứu sinh (có 5 cái/100hành khách), lại là lọai phao đường sông màu trắng, chứ không phải là thứ phao màu cam đường biển, mà cá mập rất sợ. Về thiết kế, buồng lái đóng quá cao, khiến cho tàu mất thăng bằng dễ bị lật khi có sóng lớn...
Người Phú Quý xưa nay bản chất hiền lành, cần kiệm, nên
trong thời VNCH, tính tới tháng 4-1975, trên khắp ba xã Long Hải, Tam
Thanh và
Ngũ Phụng, hầu như nhà cửa đều được xây bằng vật liệu nặng, để chống chọi nổi với gió bão thường xuyên. Khắp đảo còn có nhiều kiến trúc cổ kính và đầy chất trữ tình, ảnh hưởng bởi phong cảnh đẹp cũng như máu lãng mạn của người dân vùng Thuận Quãng, tổ tiên của lớp lưu dân khai phóng đảo. Hiện ở đây có bảy ngôi chùa nguy nga đồ sộ như Linh
Quang, Linh Bửu, Linh Sơn, Liên Hoa... Vạn An Thanh, thờ Nam Hải Ðại Tướng Quân, còn giữ được bộ ngọc cốt ông lâu đời. Ðặc biệt chùa ở đây, không có sư ni, chú tiểu trụ trì, mà do tín đồ tự làm chủ, đóng góp, xây dựng, bảo trì... Các ngôi chùa ngày nay to lớn đẹp đẽ cũng do tiền đóng góp của người Phú Quý vượt biển gửi về, nhà nước cộng sản chỉ có công tuyên bố xác nhận Phú Quý là khu vực lịch sử văn hóa mà thôi.
Phú Quý trước tháng
4-1975 không có Việt cộng nằm vùng ở đây, vì chẳng có ma nào chịu làm cơ sở, dù buổi trước các ghe đi lại giữa Phan Thiết-Phú Quý, phải ngừng lại ở La Gàn (Tuy Phong), một căn cứ địa lâu đời của cộng sản. Có lẽ vậy, cho nên sau khi cưỡng chiếm được miền nam, VC Bình Thuận đã đuổi gần hết dân trên đảo vào Phan Thiết, đi kinh tế mới tại Kim Hải, Bình Tú, Ba Hòn, Quán Thùng... để trả thù sự người dân không theo chúng. Do không chịu nổi tù gông
nô dịch, nên trên đảo, sẵn ghe to, gần thủy lộ quốc tế, nên vượt biển ào ào, bỏ trống đảo, khiến cho VC phải nhắm mắt để dân chúng bị đì vào đất liền kinh tế mới, trở lại quê xưa.
Không gì đẹp bằng chốn quê hương.
Nhiều người tha phương cùng trời cuối đất, đến khi bóng xế chiều tà lại càng nhớ thương quê mình da diết. Nhà thơ Khai Trinh đã viết lên những vần thơ đượm thắm tình quê, khi nhớ về những ngày lính lưu lạc trên hải đảo:
Quê tôi nằm giữa biển đông
thuộc vùng Bình Thuận, Tuy
Phong xa ngàn
xa quê lệ đổ hai hàng
nhớ ngô nhớ sắn, nhớ làng Tam
Thanh
nắng chiều trải xuống bãi
Gành
nhìn về Phan Thiết, biển xanh xa
vời
ngư dân vui cảnh ngàn
khơi
lênh đênh trên nước, cuộc đời thong dong
Về nguồn gốc người Phú Quý, theo nhà văn Mỹ Khê, thì dân bản dịa rất hiếu hoà, mến khách.
Toàn đảo có chín làng nhưng tiếng nói thì gần như lại khác nhau như xóm Núi Triều Dương nói giọng Phú Yên, người Xóm Chùa thuộc làng Mỹ Khê, Hội An phát âm gần giống Quảng Ngãi. Những người xóm Bầu, xóm Biển, Bải Lăng... gần làng Quý Thạnh, Thượng Hải, Hải Châu... có gốc vừa Bình Ðịnh-Quảng Ngãi. Cuối cùng người Bãi Dừa và Xóm Rảy, thuộc Long Hải Tây và Ðông, tiếng nói từa tựa dân Quảng
Nam
.
Ðiều này cho thấy nguồn gốc người Phú Quý, phát xuất từ lớp lưu dân Ðại Việt đầu tiên tại miền duyên hải miền Trung từ Phú Yên ra tới Quảng
Nam
.
Tuy thời gian đã xóa nhòa tất cả những vết tích đầu tiên tại đảo nhưng tập quán bản địa có nguồn gốc phát xuất từ Thuận Quảng như kiểu nhà, phong tục và nghề nghiệp, cho ta xác nhận phần nào nguồn gốc của dân chúng trên đảo.
Ngoài ra, vết tích người Chàm tại đây vẫn thấy nơi người Phú Quý qua hình ảnh cái gùi trên vai, mà ca dao
còn nhắc tới 'ngoài Hòn coi vậy mà vui, đi đâu cũng có cái GÙI sau lưng'. Vì nằm xa đất liền, nên trước đây Phú Quý hoàn toàn sống cô lập và tự túc, do
trên người dân trên đảo biết trồng bông nuôi tằm, kéo tơ dệt vải, vừa để đóng thuế gọi là vải thuế và thứ mịn để may mặc.
Mới đây trên đảo đã tìm thấy một tập văn vần rất xưa, nói về tâm trạng của những người thợ bị bắt buộc ra tận Huế làm xâu cho triều đình nhà Nguyễn. Vì hầu hết dân chúng Phú Quý theo tam giáo, nên trên đảo có nhiều chùa thờ Phật cũng như đình làng thờ Thành Hoàng, Thần Linh và Dinh Vạn thờ ông Nam Hải tức Cá Ông.
Ðặc biệt có chùa Linh Quang xây từ thời chúa Nguyễn Ánh còn
bôn tẩu phục quốc. Theo truyền thuyết, chính vua Gia Long lúc đó chọn địa điểm xây cất. Trong chùa có một tượng Phật lớn tạc bằng đá gọi là đá nổi, đuợc vớt từ Hòn Tranh. Chỗ đá nỗi này, nay được gọi là Vũng Phật có phong cảnh rất đep. Ở đây còn có miếu Trấn Quốc thờ Ðức Trần Hưng Ðạo, tại Long Hải có miếu thờ Bà Chúa Xứ.
Ngoài ra còn có Dinh thờ Thầy Chúa, vị thần bổn mạng của Phú
Quý, rất được dân chúng trên đảo ngưỡng mộ và kính tin. Do trên, người Phú Quý lưu vong tại San Francisco và San Bernadino, tiểu bang Ca, Hoa Kỳ, hàng năm đến tháng 7 âm lịch, đều làm bò cúng tế Thầy chúa rất trang trọng. Từ sau năm 1960, trên đảo có một vài gia đình theo đạo Tin Lành và Cao Ðài. Sau năm 1975, VC tiếp thu đảo và cấm tuyệt mọi tôn giáo, đập phá nhà thờ tin lành. Từ năm 1965-1975, các ngư thuyền tại Phú Quý được động cơ hóa, nhà cửa cũng xây cất nguy nga bằng gách tôle rất khang trang. Các giáo sư Phạm Hoàng Hộ và Phùng
trung Ngân cùng phái đoàn thuộc viện Ðại Học Khoa Học Sài Gòn, thời VNCH, có tới thăm đảo và sau đó đề nghị cách thức trồng trọt cho phù hợp với phong thổ bản địa nhưng sau đó cũng bị quên lãng.
Trong bài Hội Hoa Ðăng, Mỹ Khê viết về nghề thẻ mực trên đảo Phú Quý, phát triển từ thập niên
1960, theo nghề làm mực tại Long Hương và Phan Thiết, là dùng đèn khí đá tạo ánh sáng ban đêm trên biển, gom mực. Sau đó lại dùng đèn manchon thay thế, nên nghề câu mực phát triển mạnh hơn, tuy nhiên vì phương pháp bắt mực quá cổ truyền, nên thu hoạch rất bấp bênh.
Trên vùng biển Phú Quý có nhiều loại mực, từ thứ mực nang to
lớn nặng trên 5 kg, tới loại mực đỏ trung bình cũng như các loại mực ống, thước rất ngon, có giá bán cao. Mùa mực chính tại Phú Quý
từ tháng 6-9 âm lịch, có rất nhiều Mực Lá, nhỏ con, cơm mỏng, mình dài, đầu ngắn, ít râu, thịt ít ngọt. Về sau, người ta dùng mành mực thay vợt, nên lượng mực đánh bắt tăng gấp trăm nghìn lần khi dùng vợt. Những mùa trúng mực, ngoài phơi khô, còn muối làm mắm mực rất nổi tiếng với hương vị đặc biệt.
Từ thập niên 1980, người Phú Quý lại thay đèn Manchon bằng đèn Néong, do máy phát điện riêng của mỗi ghe
mang theo. Ngoài ra người ta còn thả đèn điện dưới nước để gom mực, nhờ đó mực bắt được nhiều mà không tốn công sức nhu lúc trước. Với phương pháp này, cả một vùng biển từ Phú Quý, Long Hương tới Mũi Né, hằng đêm được đèn điện từ các Mành Mực soi sáng, xa nhìn giống như một thành
phố, chẳng những từ các ghe Phú Quý, mà còn từ Phan Thiết, Phan
Rang, Long Hương tới hành nghề, tập hợp thành Hội Hoa Ðăng hằng đêm, đặc biệt là năm 1997, Bình Thuận rất trúng mùa mực
Trong khi đó, tại Phan
Thiết cũng như các tỉnh khác, ngư dân vẫn đánh mực bằng THÚNG CHAI LỚN, đan bằng tre trét chai, chở được từ 5-10 người, theo phương pháp cũ là đèn mangchon và vợt. Khi đi biển, các thúng chai
câu mực từ Phan Thiết, Phan Rí, Long Hương... được một thuyền lớn, có thể chở từ 8-10 thúng. Ở ngoài khơi, mỗi ghe thúng chở vài người, thả xuống biển để họ câu mực. Sau đó, ghe lớn tới vớt họ về đất liền. Dù thúng chai không bao giờ bị chìm, nhưng lối làm ăn này thường bị tai nạn, vì khó liên lạc từ thúng tới thuyền lớn. Nhiều khi vì gió lớn hay mưa to gió lớn, bị trôi giạt nên không thể gom lại đủ. Do đó những thuyền thúng bị lạc, khi tìm thấy, những nạn nhân bị chết khô một cách thê thảm.
Theo giáo sư Trần Phụng Ðình,
tại Phú Quý ngoài ngư nông nghiệp, người ta còn KHAI THÁC SAN HÔ, người thợ lặn sâu xuống nước, đục từng tảng san hô trong vùng biển Ðông, từ Phú Quý
tới tận quần đảo Trường Sa. Sau đó san hô được chở vào Phan Thiết, bán cho các lò nung thành vôi bột, dùng để quét tường hay làm hồ nhão, xây vách hoặc trét kín các nắp dũm đậy miệng tỉm đựng nước mắm.
Tại Phan Thiết, trước năm 1975, có nhiều lò vôi tập trung giữa các con đường Nguyễn Thái Học, Quang Trung, Phó Ðức Chính ở phường Ðức Thắng nhưng nhiều nhất ở bến Bà Triệu, gần nhà các
bác sỷ Bùi Quang Chiếu, Huỳnh tấn Ðối, Hường Nhi... kế Lò Heo thuộc Phường Phú Trinh, cạnh bờ sông Cà Ty mà thời Pháp thuộc có tên QuaiVerdun.
Tại Phú Quý còn sản xuất Vải Hòn, vì
trên đảo có trồng nhiều bông vải, có thể kéo thành sợi, để dệt thành vải tuy thô nhưng cũng nhờ vậy, mà trong suốt thời kỳ quân Nhật chiếm Ðông Dương 1940-1945, người Bình Thuận không thiếu vải may mặc, trong lúc các tỉnh khác phải mặc quần áo vá hay dùng cả bao bố vải để che thân. Trên đảo vui nhất là mùa hái bông vải, với quang cảnh các cô
gái Hòn miền biển mặn nhưng da trắng nõn nường xinh xắn, khác hẳn với phụ nữ sống trên Cù Lao Ré, ngoài khơi Quảng Ngãi
da đen sần sùi vì sóng gió biển khơi. Các
thiếu nữ hái bông, phía trước mang yếm, lưng đeo gùi đựng bông vải hái từ cây xuống. Ngoài ra, cách Phú Quý về phía nam chừng 22 hải lý, vào
năm 1923 đột nhiên có hai đảo nhỏ nổi lên nhưng vì được cấu tạo bởi tro đất từ phún xuất thạch của nuí lửa dưới biển, nên chỉ sau ba tháng, hai đảo nhỏ này lại chìm xuống biển sâu, mặc dù trên bản đồ hải hành vẫn còn ghi để nhắc nhớ các tàu bè qua lại vùng biển này.
Nhìn trên bản đồ thế giới, Phú Quý hay Hòn Thu nằm cheo leo trong Ðông Hải, cách
Phan Thiết về hướng đông nam chừng 80km, cách Trường Sa 540 km và Hoàng Sa 725km. Ðảo có chiều dài 12
km, ngang 4,5 km, chu vi từ 30-35 km và diện tích tổng quát chừng 36 km2. Ðảo được hình thành hơn 9 thế kỷ qua, do các ngư phủ sống nghề đánh cá chuồn (Cypsilurus Spiloptorrrus) doc theo duyên hải các tỉnh Nam Ngải Bình
Phú tạo nên. Hiện Phú Quý bao gồm quần đảo Trường Sa, là một huyện đảo thuộc tỉnh Bình Thuận, có dân số trên 22.000 người, mà 2/3 là ngư dân thành thạo nghề biển, chuyên săn cá mập lấy vi, lặn sò điệp quạt, các loại cá lớn, hải sâm... Số còn lại sống nghề làm rẫy. Trữ lượng hải sản ước tính 58.000 tấn và khả năng khai thác chừng 20.000 tấn/1 năm.
Ngư trường Bình
Thuận rộng lớn và dồi dào hải sản, nằm về phía đông nam biển VN, chạy từ Hàm Tân ra tới hải phận quốc tế, xuống gặp quần đảo Trường Sa, giáp giới với vùng biển Nam Dương. Ngư trường này hiện là một địa điểm khai thác hải sản qui mô, chẳng những dành cho Phú Quý, Bình Thuận mà còn là vùng biển khai
thác của các ngư dân lân cận từ các tỉnh Quảng Nam-Ðà Nẳng vào tới Khánh Hòa, Ninh Thuận. Theo một kỹ sư Pháp tên
Raoul thì dưới chân núi Cao Cát có mõ dầu, còn xã Long Hải thì có
quặng Vàng non. Các loại hải sản hiện có
quanh Phú Quý rất nhiều là Mực Nang (Sepia), mực ống (loligo), mực tuộc (Calmar), mực túi (Octopuspunotatus), các loại cá Hồng
(Lutianus Erythropterus), cá Mú già (Merou)...
Vào đầu thập niên
70, chính phủ VNCH đã cho các nhà thầu quốc tế tới hải phận miền nam VN, phân lô, khoan tìm các túi dầu và khí đốt dưới đáy biển. Kết quả các nhà thầu Mỹ đã xác định được vị trí các giếng dầu Ðại Hùng, cách Phú Quý về phía nam khoảng 150 hải lý với trữ lượng trên 300 triệu thùng, giếng Bạch Hổ cạnh Ðại Hùng, cách Phú Quý chừng 80 hải lý về phía
nam, có trữ lượng trên 600 triệu thùng, giếng Rồng cách Phú Quý về phía nam chừng 100 hải lý, trữ lượng trên 100 triệu thùng... Riêng khí đốt, VN có trữ lượng trên 10.000 tỷ Cubic feet.
Ai tới thăm Phú Quý
lần đầu, chắc hẳn sẽ thích thú và ngạc nhiên vì được gặp nhiều phong cảnh của các vùng quê hương đất nước. Về thăm xã Ngủ Phụng vào buổi chiều, làm ta như đang sống tại các thôn xóm dọc theo hai bờ sông La Ngà ở Hoài Ðức, Tánh Linh, qua tiếng gà cục tác gọi đàn con về chuồng, nhà
nào phía sau cũng có cầu tre nho nhỏ với chiếc lu đựng nước bên hè và thơ mộng nhất có lẽ là những đợt khói xanh biếc cơm chiều, khiến cho ai hồn cũng lâng lâng nhớ buồn. Xã Tam Thanh bến cảng, chợ huyện, trên đất dưới thuyền lúc nào cũng xôn xao tiếng người gọi nhau ơi ới, nhất là lúc thuyền đánh cá từ biển về bờ, khiến chúng ta như gặp lại Long Hương, Phan rí Cửa. Xa xa về bãi sau của đảo là xã Long Hải, nhà cửa san sát, xây cất toàn vật liệu nặng như thách thức với bảo tố cuồng phong và nắng gió đại dương muôn trùng, đâu có khác gì Cà Ná, Gành Son, Duồng...
Trước năm 1990,
trên đảo chỉ có một 1 cơ sở chế biến hải sản vì thời gian đó, VC bế quan tỏa cảng để xây dựng thiên đàng xả nghĩa. Rồi thì chủ nghĩa cộng sản sụp đổ hoàn toàn tại Ðông Âu và Liên Xô, khiến VC phải mở cửa đón đầu tu tư bản vào cứu đảng. Nhờ vậy, Phú Quý hồi sinh qua chương trình biển đông-hải đảo, giai đoạn 1997-2000, qua các xây dựng hạ tầng cơ sở trên đảo như làm đê chắn sóng, sửa sang mở rộng đường sá chạy vòng đảo, làm ngư cảng, lập hệ thống điện nước, mở bệnh viện và trường học cấp huyện.
Song song với đầu tư ngoại quốc, các gia đình trên đảo có thân nhân vượt biển, cũng nhận được nhiều giúp đỡ, nên Phú Quý phát triển nhanh chóng trở lại ngư nghiệp và nuôi
các loại thủy sản quý đề xuất cảng.Tính đến năm 2002, Phú Quý có 731 thuyền đánh cá loại
19.370CV, trong số này có 20 tàu đông lạnh, có thể muối hay thu mua những thủy sản được thu hoạch, ngay trên biển, để tàu đánh cá không cần trở lại bến, mà vẫn tiếp tục hành nghề. Những tàu đông lạnh này còn cung ứng những thứ cần thiết.
Trên đảo hiện có 16
xí nghiệp vừa tư nhân cũng như quốc doanh, chế biến các loại hải sản, 20 nhà máy làm nước đá và nhiều tiệm chuyên
sửa chửa thủy động cơ, không cần phải vào đất liền như trước. Về phương tiện giao thông giữa huyện và thành phố Phan Thiết, đã có 3 tàu chuyên chở hàng, trọng tải 195 tấn và 5
tàu hành khách của quốc doanh và tư nhân, có thể cập bến tại ngư cảng mới của Phú Quý ở Tam Thanh. Về giáo dục, trên đảo đã có trường trung học công lập đệ nhất cấp. Tổng số học sinh trung tiểu học, theo thống kê năm 2002 lên tới 6073. Mức thu nhập bình quân 250 USD/1 năm. Hải ngư cảng Triều Dương,
Hải Ðăng được xây dựng khá qui mô với hệ thống trụ neo tàu và bờ kè. Ngư dân trên đảo cũng theo thời chế biến các hải sản xuất khẩu như cá đông lạnh, mực lột da hay muối mặn... Nhiều ngư dân có máy định vị, tầm ngư và vô tuyến. Về nuôi hải sản, hiện có 21 cơ sở sản xuất cá mú, tôm hùm... qua các lồng bè và ao chắn ven bờ. Ốc hương,
ba ba và nhất là loại cá mú đen có giá cao, được nuôi trong khu vực kín gió tại Lạch Dù, xã Tam Thanh đang phát triển rất mạnh.
Hiện Việt Cộng sáp nhập các đảo còn lại tại quần đảo Trường Sa vào huyện Phú Quý, tình Bình Thuận. Do trên ngư trường Phú Quý được kéo dài tới những ngư trường Côn Sơn, Ðông Phú Quý tiếp với hải phận quốc tế, ngư trường Trường Sa... là vùng biển có rất nhiều cá mập, cá hồng, cá
thu, cá chuồn... Nói chung vùng biển trên, ngoại trừ những biến chuyển đột ngột của khí hậu, bình thường nơi này sóng gió ôn hòa nhờ có đáy biển bằng phẳng. Nhưng trở ngại lớn vẫn là ngư dân Bình
Thuận chưa có nhiều tàu lớn để có thể hành nghề xa bờ như ngư dân Nam Hàn, Ðài Loan, Nhật Bản.
Thế giới hiện nay đã phát hiện được 50 loài cá mập, trong số này có 29 loài ăn thịt người rất nguy hiểm. Vùng biển VN có 14 loài cá mập, trong đó có 6 loài dữ, sống tập trung từ Phú Quý
xuống tới Côn Ðảo, Trường Sa. Do trên ngư dân các tỉnh duyên hải từ Quảng Ngãi vào tới Bình Thuận, nhất là ở Phú Quý rất sành nghề câu cá mập, mà dân đảo gọi là nghề săn sư tử biển. Hiện nay, trong thời gian 26 ngày làm việc tại ngư trường Trường Sa, với 1 tàu lớn và 6 thuyền nhỏ, ngư dân có thể câu trên 35 tấn cá mập, từ đó thu được 414 vi cá phơi khô dùng chế biến món ăn 'VI CƯỚC CÁ' thượng hảo hạng và gan dùng chế thuốc bổ 'dầu gan cá'. Riêng thịt cá mập thì vứt bỏ vì không ai muốn ăn, ngoài
một số dân nhậu ăn tạp cho lạ miệng. Cũng tại Trường Sa, cá mập rất thích ăn mồi, vì vậy các ngư phủ đã dùng cách câu lưỡi móc mồi và có đêm, một thuyền câu đã bắt trên 100 con cá mập bằng lối câu kiều này,
trong lúc tại các vùng khác không hề xãy ra.
Theo Y học, thì cá mập có giá
trị lớn đối với con người vì ngoài công dụng cung cấp thực phẩm, gan cá mập chế thuốc bổ, máu cá mập có khả năng phòng bệnh rất cao nhất là chứng ung thư. Riêng giác mạc cá mập có thể đem ghép vào mắt người để trị các bệnh về thị giác. Hiện thê giới đã mở một ngân hàng giác mạc cá mập... Ngoài ra da cá mập dùng làm túi xách, dây nịt và các
loại trang sức phụ nữ, giá cao không kém da sá sấu. Tại Âu Mỹ, người ta đã dùng thịt cá mập làm món bít tết, trong khi ở VN, cá mập chỉ được muối mắm và một số nhỏ xẻ thịt phơi khô.
Nhưng cá mập rất hung dữ, thường tấn công con người. Chúng hung dữ khi còn trong bụng mẹ. Hàng năm từ tháng 5-10 là mùa cá mập ở Trường Sa. Tại Phú Quý, nghề câu bủa cá mập lấy vi thịnh hành từ những năm đầu của thập niên 60, sau nghề thẻ mực và nghề này càng ngày càng đuợc cải tiến. Nhưng có một sự ngạc nhiên
là tuy cùng là người Phú Quý mà cách câu cá mập mỗi xã lại khác
nhau vì ảnh hưởng của tập quán bản địa. Theo đó, ngư dân Tam Thanh và Ngủ Phụng, chuyên nghề câu bủa cá mập mồi chìm. Lối câu này
lấy thẻ mực làm mành và lưỡi rút, để câu các loại cá như hồng heo, hồng phèn, hồng chuối, hồng chữ, mú chiên, mú giấy, cá thu vốc, cá mím... tại các vùng biển có gò, rạng.
Trái lại người Long Hải thì chuyên nghề câu bủa mồi nổi và lặn bắt các đặc sản như đồn đột, tôm, cua, ốc, đồi mồi tại Trường Sa. Thường thường, mỗi năm người Phú Quý ra khơi từ 15-20 chuyến tuỳ theo thời tiết và mỗi chuyến lâu từ 15-20 ngày, để câu cá mập lấy vi,gan và lặn bắt các loài hải sản khác. Ða số các thuyền câu tại Phú Quý thường là loại ghe có công suất 33-45 CV. Ðể chuẩn bị cho một chuyến xa khơi câu bủa cá mập, mỗi thuyền thường mang theo từ 20-25 kẹp cheo câu. Thường thì mỗi kẹp được kết lắp độ 20 thẻo câu và khoảng cách giữa mỗi thẻo câu, có chiều dài khoảng 20-30 sãi tay, tương đương từ 30-45m.
Tóm lại mỗi kẹp câu có chiều dài chừng 1km. Khi hành nghề, các câu bủa được nối liền nhau, thành một vòng bao có chu vi tới 20-30 km. Tại những điểm nối của các kẹp câu, ngư dân dúng đá dằn xuống sát đáy biển, phiá
trên có phao và cờ hiệu làm dấu. Mồi dùng câu cá mập là các loại cá ngừ, nục, cờ, heo, đuối, nhái, ó. Hiện nay các thuyền câu cá mập đều được trang bị thêm trục kéo, do trên việc thu câu dễ dàng hơn kéo tay như trước đây. Tuy nhiên mấy năm gần đây, việc câu bủa cá mập càng ngày càng khó khăn vì ghe thuyền hành nghề tại vùng biển Trường Sa quá đông đảo, vừa làm lượng cá ít ỏi dần và trên hết làm đứt câu của ngư dân. Mặt khác nhiều người lại sử dụng chất nổ, khiến cho nghề bủa cá thêm bấp bênh và nhiêu ngư dân lại quay về nghề cổ truyền như câu thẻ, mành mực, câu cá tại các gò, rạng quanh biển Phú Quý.
Mới đây trong vùng biển Bình
Thuận lại xuất hiện loại Mực Tuộc Ðốm Xanh là một loại thủy tộc rất nguy hiểm với sanh mạng con người, nhất là những thợ lặn. Loài mực này thường gặp ở biển Bình Thuận, Bà Rịa-Vũng Tàu, Gò Công, Bến Tre, Trà Vinh... Theo tin tức, thì vào ngày 18-5-2003, một thợ lặn ở Hàm Tân,
Bình Thuận trong lúc lặn dưới biển thì bị một con mực đốm, màu xanh, to bằng ngón tay cái cắn vào đùi và chừng 30
phút sau, nạn nhân bị co giật và chết.
Theo các nhà khoa học, thì đây là
loài mực tuột đốm, qua cái tên Hapalochlaena Lunulata (Quoy and Gaimard, 1832), là
loài mực từng cắn chết người ở Mỹ Tho, cũng như gây ngộ độc thực phẩm cho 33 người trong đó làm cho 4 người chết tại Bình Thuận. Theo các nghiên cứu tại Viện Hải Dương
Học Nha Trang, cho biết Loài Mực Tuộc Ðốm Xanh có
mang độc tố Maculotoxin (MTX), với hàm lượng rất cao, lên tới 4,287 micro gram/100g chứa trong tuyến nước bọt, có thể giết chết người. Ngoài độc tố này còn thấy trong khắp cơ thể kể cả râu. Một con mực độc này, khi trưởng thành qua kích thước 140-150mm, nặng
20-29g, có chứa một lượng độc tố đủ giết 10 người. Loại độc tố này rất giống độc tố thần kinh Tetrodotoxin (TTX) ở cá nóc. Khi bị mực cắn, chất độc từ tuyến nước bọt theo răng vào máu người. Nạn nhân chừng vài phút sau thấy ngứa, nơi vết thương bị bỏng, rồi chân tay run rẩy, bắp thịt tê cứng, bệnh trạng kéo dài chừng 2 giờ, nạn nhân chết trong sự tĩnh táo. Loài mực này thường sống ẩn trong các hang đá nhỏ dưới nước, chúng rất dễ phân biệt với những loại mực tuộc hiền (Octopus), nhờ làn da của chúng có những đốm tròn xanh da trời lớn và râu rất khác biệt. Chúng có thể sống trên cạn vài ba tiếng nhờ làn da có lớp nhầy luôn giữ được đổ ẩm. Mực này như cá nóc, không ăn được vì có chất độc chứa khắp cơ thể từ thịt, nước bọt đến gan ruột và cơ quan sinh dục.
Nói chung
,
nh
ờ tiền thân
nhân từ hải ngoại giúp đỡ và vốn đầu tư của tư bản, mấy năm gần đây, người Phú Quý bớt nhọc nhằn. Nhà cửa trên đảo đều tường gạch mái ngói thềm lót đá hoa, đời sống tiện nghi không thua chốn thị thành.
Tới thăm đảo, nếu khởi hành từ Ngũ Phụng đi về hướng bắc sẽ gặp Miếu Bà, Lăng Ông, Mõm Vàng, Mũi Trâu nằm, Doi Thầy Chúa. Tại đây có nhiều miếu thờ Thầy Nai, tương
truyền là lính của Trịnh Hoà, thái giám đời Minh bên Tàu, đi khảo sát phương nam, bị bệnh chết, nên đem chôn đứng trên đảo. Hiện ngôi mộ đá này vẫn còn và có hình dạng như một miệng giếng. Hàng năm tới ngày 12 tháng 6 âm lịch, dân đảo tổ chức cúng mừng ngày vía, có hát bội và hò bá trạo. Hai
bên miếu hiện còn hai con rái cá bằng đá, tương
truyền do chính vua Gia Long khi tẩu quốc tới đây năm 1783, đã sắc phong
và được khắc vào đá, bằng tám chữ 'Tả Hữu Lang lại, Nhị Ðại Tướng Quân' Qua khỏi Long Hải, nhìn
lên thấy Hàm Rồng trên núi Cao Cát, lưng chừng núi có
chùa Phật Linh Sơn Tự. Rồi tới Lạch Thế, xóm ông Cội, Lạch Dù, Lạch Bãi Phủ nơi có hang cá mập về tu khi già. Vào điạ giới xã Tam Thanh thấy miếu thờ trời, Doi Lĩnh, Bãi Ðá Cửa Khổng, Bàn Thang cùng nhiều hang động lạ mắt. Ðây là cửa sâu, dưới chân núi Ðụn (44,9m), qua Doi Cát Vinh tới Cồn Giữa, nối liền với Hòn
Tranh khi nước cạn, tiếp với Lạch Chỏi, Lạch Chùa thuộc xã Tam Thanh, hiện là ngư cảng chính của Phú Quý.
Trên Hòn Lớn hiện có 3 Vạn thờ Nam Hải Ðại Tướng Quân (Cá Ông) và 6 ngôi chùa thờ Phật đều được dân làng trùng tu. Tại Hòn Tranh có Gò Cạn Ðá, Gò
Móng Tay, Bãi Nam, Bãi Nồm, Bãi Bắc, Vũng Gần, Vũng Bàn, Mũi Xương Cá, Vũng Phật. Chính tượng Phật Thích Ca, thờ trong Linh Quang Tự ở Triều Dương, được tạc bằng đá bột trên đảo hòn Tranh, từ đầu thế kỷ 20. Ở đây còn có hang Cá Cơm, hang Cò Nước, Cò Khô, nơi trú ẩn và sinh đẻ của cò. Ngoài ra còn có miếu thờ tướng quân Bùi Huy Bích (1744-1818), nhà Nguyễn. Theo
tài
liệu còn lưu trữ, năm 1928, Pháp mở trường sơ cấp Ngũ Phụng với ba lớp đồng ấu, dự bị và sơ đẳng.
Hiện Huyện Phú Quý
bao gồm thêm các đảo Trường Sa, An Bang, Song Tử, Tiên Nữ và Sinh
Tồn... gọi chung là Trường Sa, thuộc tỉnh Bình Thuận. Trường Sa gồm nhiều đảo, xếp thành hình vòng cung, nằm về phía đông nam
VN. Thời tiết ở đây gần giống Nam Phần, mùa nắng từ tháng giêng đến tháng năm, những thang còn lại đều là mùa mưa. Nhờ có biển bao quanh, nên nhiệt độ trên đảo trung bình 25 độ C, ban đêm mát hơn trên đất liền.
Ðây là vùng bão tố, có thể nói là
không bao giờ ngớt gió, cho nên mới được mệnh danh là nơi 'đầu sóng, ngọn gió'. Vì gió mạnh nên sóng rất cao và sóng cuộn cao trùng trùng, xa nhìn như những bờ đê, kéo
dài bất tận. Ở đây thường có bão nắng, nóng làm bỏng da, còn cát thì chạy mịt mùng. Nhưng ngược lại ngư trường Trường Sa có nhiều loại cá quý như Hồng, Mú, Ngừ, Mập, Thu, Tôm Hùm, Ốc Tai Tượng, Ngọc Trai... Tóm lại tại đây có tất cả 177 loại cá, trong đó ngư dân đang khai thác được 60 loài. Trong số này có Cá Ngừ là loại mà người Nhật dùng ăn sống, có giá rất cao. Riêng họ cá Hồng chiếm 45%, cá Mú 10,3%, cá Thu 3,5 %. Ngư dân Phú Quý tới Trường Sa, chủ yếu khai thác cá Hồng và cá Mập lấy vi, gan. Mỗi chuyến thường kéo dài 15-20 ngày. Ngoài ra còn có tôm Hùm, cua Huỳnh Ðế, Ðồi Mồi, Ngọc Trai, Hải Sâm, Ốc Tai Tượng, Cá Mú. Ngư dân còn bắt được nhiều rùa biển (vích hay Ðú), khi chúng ngủ trên mặt nước hay trong mùa giao phối.
Người Phú Quý khi tới làm biển ở Trường Sa, rất chú trọng tới động tác của chim Hải Âu. Ðây là loài chim khí tượng, khi chúng đi kiếm ăn xa, ắt là thời tiết tốt, sóng
yên gió lặn. Những ngày chỉ bay quanh quẩn ven bờ, thời tiết xấu, không gió lớn thì cũng mưa giông. Ðến khi nghe chúng kêu réo inh ỏi và bay hàng đàn trên đầu kiếm chỗ ẩn náo, là dấu hiệu báo trời sắp có bảo tố.
+ Lòng Tin Thầy Chúa Trong Lòng Ngư Dân Phú
Quý:
Khi viết về quê hương
Phú Quý của mình, nhà văn, nhà biên khảo Mỹ Khê (Ðổ Minh Hứng), có nhắc tới THẦY và CHÚA là hai đấng thần linh, được tin tưởng tuyệt đối trong lòng hầu hết mọi người sống nơi hải đảo.
Theo Thượng Tọa Thích
Quảng Thanh, sư trưởng chùa Bảo Quang tại nam Califonia, thì Thầy và Chúa trong lòng người Phú Quý, đó là lòng thành khẩn và niềm tin của người mộ đạo.
Riêng với người Phú Quý, thì Thầy và Chúa, coi như là sự tổng hợp tất cả lòng tin từ mọi tôn giáo trong lòng họ như Ðức Phật, Ông
Nam Hải, Thần Thánh, Kẻ Khuất Mặt, kể cả Bà Chúa Ðảo người Chàm. Có điều là trong lúc cúng tế, qua những nguồn tín ngưỡng truyền thống lâu đời, người dân ở đây lại nhắm vào hai đấng linh thiêng của họ, mà qua tin tưởng truyền từ đời này sang thế hệ nọ, ai cũng nói là Thầy Chúa, đã che chở và cưu mang họ, trong mọi trường hợp nguy khốn, bệnh tật, bảo táp và ngay chính khi tiếp cận với sự chết chóc tại chiến trường.
Thật ra tới nay, biểu tượng của Thầy và Chúa, chẳng một ai biết chính xác về xuất xứ, mà chỉ theo lời kể, huyền thoại cùng nổi cô vọng mơ hồ, lâu ngày trở thành sự thật của một niềm tin. Hình ảnh đó tuỳ theo cơ duyên của niềm tin. Ðối với các tin đô Phật gíáo, thì họ quan niệm đó là Phật Bà Quan Âm. Ðối với những ngư dân hành nghề trên biển, thì đó là Nam Hải Ðại Tướng Quân. Nói chung tuyệt đại quần chúng
trên đão Phú Quý, thì đó là những hình ảnh thiêng liêng trong tâm tưởng, làm điểm tựa của một niềm tin sắt đá, tạo nên sự thành
công trên đường đời, từ đó đến nay. Cho nên không ngạc nhiên khi biết, những người Phú Quý hải ngoại đang định cư tại San Francisco và San Bernardino, hàng năm vào
tháng bảy âm lịch, tổ chức cúng tế rất linh đình trang trọng và đây cũng là dịp để người người trả ơn cứu độ.
Những di tích còn lại lâu đời trên đảo như mộ và dinh thầy, miếu bà chúa xứ, được người địa phương gìn giữ và tôn sùng. Vào những năm đầu thập niên 70 của thế kỷ XX, mộ thầy được trùng tu theo mô hình bát quái, một hình thức mà các
thầy đia lý gọi là phép ếm đối. Sự trùng hợp ngẫu nhiên sau đó là trên đảo luôn xãy ra sự bất ổn, khiến cho chính quyền cũng lưu tâm. Theo Ðổ Minh Hưng viết, do vậy cho nên trong một lần kinh lý, Ðại Tá Tỉnh Trưởng Bình Thuận là Ngô Tấn Nghĩa tới thăm Phú Quý, đã ngạc nhiên về ngôi mộ thầy, nên theo lời các bậc trưởng thượng trên đảo, yêu cầu chính quyền sở tại xây lại mộ thầy như hình dạng nguyên thủy đã có từ xưa.
Xưa nay ta biết, mỗi thần tích đều bắt đầu bằng một câu chuyện tiền kiếp. Trong tâm khảm của người Việt, vẫn có sự khác biệt trong cùng một niềm tin của nông dân và những người thương buôn hay dân chài sống quanh năm trên biển cả. Cho nên
với người nông dân bình yên trên đất liền, giáo
lý của tôn giáo mới là điều quan trọng. Nhưng trái lại đối với ngư dân hay giới thương hồ, sự kiện thần cứu người ngoài biển khơi mới quan trọng, ghi nhớ và do đó thần mới được truyền bá thờ cúng lan rộng. Ðối với giới thương buôn trên biển, thần Bạch Mã (Thái Giám), đươc tôn sùng trong một thơi gian dài. Với người dân biển, quanh năm tiếp cận với sóng gió, thì vị Bồ Tát đó là Avalokitesvara, Quan Âm của Phật giáo Ðại thừa và Quan
Âm Nam Hải của dân qua lại trên biển đông, mỗi khi gặp tai nạn thường khấn nguyện kêu cứu.
Một truyện tích đi theo lớp lưu dân
Trung Hoa qua hai ngã đường bộ và đường biển, cùng với những thần tích, nhân vật mang những hình dạng huyền thoại không dễ gì nhận ra, vì mất đi tính chất sự tích của lúc ban đầu. Giống như truyền thuyết về thầy chúa tại Phú Quý, khởi nguồn từ một ngôi mộ truyền khẩu là của một hoa thương hay là gia đình Tưởng Giới Thạch, qua sự kiện một vài người Hoa từ Phan Thiết tới cúng kiến. Ðiều ngạc nhiên là dân Phú Quý hoàn toàn là Ðại Việt, vậy sự tích thầy là người Hoa có gì liên hệ mà họ phải cúng kính? Thật ra đây là sự nối tiếp giữa nên văn hoá Việt và nền dân tộc học của người Chàm, đã có một thời vẩy vùng trên biển khơi. Sự thờ kính thầy chúa trên hải đảo ngoài khơi Bình Thuận, chính là sự nối tiếp Chàm-Việt, qua đó người địa phương vốn đến từ miền ngũ Quảng, đã tưởng tượng từ ý nghĩa, tính 'thái giám' của thần tích,
nên ghép chung thầy Tàu và chúa Chàm, đó là truyện tích và
sự thờ cúng thần thánh tại Phú Quý, trong dòng tín ngưỡng dân gian của người Bình Thuận.
Cũng trong câu chuyện thần tích,
liên quan dến thần biển, đảo, trong truyện tích Việt-Chàm Bình Thuận, vẫn hay nhắc tới chuyện tướng Tài Công Lan, Kỳ Hoạt Bát hay Cathun.rât được dân
chài vùng Mũi Né, Phố Hải cúng tế. Rồi thì người Chàm vong quốc, những ông thần Chàm cũng chạy theo và người Việt lại thay vào đó là ông Bổn, tức là thái giám Trịnh Hoà thời nhà Minh, được dân Minh Hương khi tới định cư ở VN trong thời kỳ Trinh-Nguyễn phân tranh thờ phụng. Hiện tượng thu nhận, chuyển đổi, biến dạng thần thánh trong dòng tín ngưỡng của người Việt xưa nay, là điều thường xảy ra khi phải giao tiếp giữa Việt-Hoa-Chàm và Khờ mer. Cho nên dù không rõ sự tan vở quyền lực của người Chàm trên hải đảo Phú Quý như thế nào. Tất nhiên cũng không thể suy đoán từ hiện tại để cho rằng quá khứ thế này, thế nọ. Nhưng hiển nhiên thần thánh tại Phú
Quý, một vùng đất xa xôi của Bình Thuận, nơi mà quyền lực và văn minh của nhà Nguyễn cũng như thực dân Pháp, không chạm tới cả một thời gian
dài hằng bao thế kỷ, đã khiến cho thần linh không có chiều hướng nâng cấp như ở đất liền, mà phải đứng khựng lại và phát triển chiều ngang theo tầm mức dân sinh trong lòng người bản địa.
Tuy khởi nguồn từ cái nôi
văn hiến của ngũ Quảng, nhưng rỏ ràng các lưu dân Phú Quý chỉ là lớp dân biển sống ven duyên hải Trung phần, nên tính tình cũng như bản chất rất bình
dân, họ chỉ lưu tâm tới các thần thánh sát đời sống nghề nghiệp hằng ngày của mình như thổ địa, ma quỷ, thần cây đa ma cây gáo, hơn là các vị thần ngất ngưỡng trên tòa sen Phật giới cao tít. Có điều phải công nhận là dù lưu dân có ngang bướng, dọc ngang thế nào chăng nửa nhung họ luôn biết, ngoài thần thánh của mình mang theo, không có bao nhiêu, nên phải tiếp nhận thêm thần của người tại bản địa, để ứng xử cho hợp với thực tế. Cũng dể hiểu khi giải thích, vì người lưu dân thời trước gần như sống trong cảnh bị đem con bỏ chợ, nhất là trong khoảng thời gian từ 1862-1945. Lúc đó triều đình càng lúc càng xa, mà cuộc sống của lưu dân
càng lúc càng mõng manh. Do thiếu quyền lực trần thế bảo vệ, người dân sống trong vùng cô tịch, bổng sợ cõi vô hình, dưới những dạng khuất lấp khó lường. Rồi do những sự đe dọa thường nhật, cho nên dù Việt và Chàm có hai nền văn hoá khác biệt nhưng lại chung sự thờ cúng thần biển, nên sự hòa đồng sau đó, mà điển hình là lòng tin kính thầy và chúa.
Trong dòng lưu dân Trung Hoa, tới lập nghiệp tại Ðàng
Trong vào thế kỷ XVII và sau đó, đa số làm ăn phát đạt là nhờ hưởng được quá nhiều, chính sách dung dưỡng và bao che của thực dân
Pháp trên lãnh vực kinh tế. Nhưng không phải vì thế mà họ là những khuông mặt xuất sắc về văn hóa và
tư tưởng so với trí thức VN, ngay cả những người được gọi là tổng binh, đô đốc... bỏ nước ra đi để phản Thanh, phục Minh.
Về thương buôn lại càng tệ hơn vì đa số ít học nhưng nhờ có tiền và thế lực kinh tế, nên đã gây ra
những phản ứng ngược trong dòng tín ngưỡng dân gian người Việt. Ngoài ra Ðàng Trong cũng là cửa ngỏ đón tiếp lưu dân
Minh triều đầu tiên nhập Việt, trước khi được phép xuôi về Nam khẩn hoang, nên cũng mang đầy dấu ấn của Thiên Ðịa Hội. Phú Quý là một vùng đất hải đảo xa xôi đất liền, nên không bị khủng hoảng về tín ngưỡng trong suốt thời gian Pháp thuộc, do sự lấn áp của chủ nghĩa kinh tế tư bản Tây phương, trước trào lưu tam giáo Phật, Lão, Thích. Trong khi Bình Thuận và cả nước, từ Việt, Hoa, Khmer, Chàm... sôi động trong sự khủng hoảng, đảo lộn vì sự chiếm đóng của người Pháp, thì Phú Quý vẩn hạnh phúc trong cảnh thanh
bình biển sóng, trời mây, giữa lúc người Việt đành mang cái riêng ngàn đời, để hội nhập vào trong cái chung cũa tư tưởng thế giới, thì người dân biển cũng chỉ biết 'Khấn Vái, Cầu Phước' và may mắn thay cho ho, là hầu hết tai nạn đều qua khỏi, trước ngày giặc Băc tới đô hộ đảo sau tháng 4-1975. Ðó là sự thành khẩn trong
niềm tin, một tôn giáo của Phú Quý qua thần tích 'THẦY V CHÚA'
+ Lệ Cúng Thầy Chúa của người Phú Quý định
cư tại Hoa Kỳ:
"Hồn tôi bỗng vỡ làm đôi
Nửa nơi đất khách, nửa nơi quê nhà"
Ðó là hai câu thơ mà nhà văn kiêm nhạc sỹ Anh Vũ, đã mở đầu trong bài viết về Lệ Cúng Thầy Chúa hằng năm, của người Phú Quý, tỉnh Bình Thuận tại Hoa Kỳ. Thật vậy, rất là bất ngờ, tôi đến nơi địa điểm đăng đàng lễ cúng Thầy Chúa trễ hơn mười lăm phút, nên chiên trống đã trỗi lên
liên hồi, cờ đuôi nheo ngũ sắc, đại kỳ Việt Mỹ hàng hàng tung bay phất phới. Người người trang nghiêm, chỉnh tề hướng về bàn thờ hai vị thần linh "Thầy Chúa" lộng lẫy, uy nghiêm nghi ngút hương trầm. Ban tế lễ mặc những y phục cổ truyền xanh đen óng ả mượt mà. Hơn chục vị, trên nét mặt người nào người nấy lộ vẻ nghiêm trang thành khẩn. Bàn thờ lớn chính
giữa, với những bài vị, hoành phi câu đối đỏ vàng hai bên, những chân đèn đồng bóng loáng được chiếu sáng bởi các ngọn nến, khói nhang hương trầm nghi ngút uốn lượn làm tăng thêm vẻ huyền bí của buổi tế lễ. Hai bên bàn thờ chính là hai bàn thờ nhỏ. Phía trước cũng có một bàn thờ thấp hơn, bàn nào cũng có những bông
hoa tươi đỏ thắm, nải, quả và đầy đủ thực vị của ngày cúng giỗ cổ truyền. Ðặc biệt nơi này có thêm một con bê thui được cúng tế như hồi còn ngoài Ðảo.
Sau hơn một tiếng đồng hồ dâng sớ, châm rượu, tôn vinh công đức Thầy Chúa với đầy đủ nhang khói, chiêng trống phèng la của ban nhạc cổ truyền, mọi người được phép vào bàn thờ thắp nhang, vái lạy, cầu xin, bày tỏ lòng biết ơn thành kính của mình đối với hai vị thần linh Thầy Chúa rất linh thiêng đã và đang phò độ cho con dân Ðảo Phú Quý giữa nơi sóng nước bao la từ bao đời nay tai qua nạn khỏi. Ðặc biệt nhất là sau khi CS cưỡng chiếm miền
Nam
,
với chính sách độc tài chuyên chính, vô sản hóa toàn dân, bà con Hải Ðảo phải cắn răng giã từ mồ mả ông cha
ra đi. Nhờ Thầy Chúa phù hộ, tính cho đến nay khoảng hơn 2000 người đã đến được bến bờ Tự Do mà "không có một người nào mất tích trên biển", trong đó tôi, một trong những người khách cưu mang những "ân tình ân nghĩa" đối với bà con Phú Quý và nhất hai vị thần linh Thầy Chúa-thể hiện lòng Từ bi, đức độ Bồ Tát cứu độ chúng sinh, y như đạo hạnh của Ðức Phật Quan Thế Âm: "chúng sanh còn đau khổ, thì
Ngài còn ở lại thế giới Tà Bà để phổ độ".
Ðây không phải là lần đầu tiên tôi dự ngày lễ cúng Thầy Chúa của bà con Hải Ðảo. Cứ vào khoảng những ngày đầu mùa hè hàng năm, dù được mời hay không, khi nghe tin đến ngày cúng là tôi đều có mặt. Nhưng những năm trước vì bà con mới định cư, nên cách thức trang trí, nghi lễ văn điếu, lễ tế, và địa điểm hành lễ có phần đơn sơ. Thế mà bà con Hải Ðảo thông qua Hội Ðồng Hương Phú Quý Nam California quy tụ hơn hai trăm người. Càng ngày con số này gia tăng đáng kể. Như hôm nay có thêm bà con từ
San Francisco
về. Hội có ban nhạc, ca sĩ riêng.
Tuy là cây nhà lá vườn, nhưng trình diễn vô cùng điệu nghệ. Khoảng 300 người quay quần bên nhau chuyện trò líu lo hớn hở. Người nào việc nấy: các chị xào nấu, mùi thơm thức ăn, gia vị bốc lên làm ngào ngạt cả núi rừng công viên
Pomona
.
Các anh dọn dẹp vệ sinh, sắp xếp bàn ghế và chia nhau bày trò chơi với các em thiếu nhi. Họ làm việc tự do sốt sắng, không
so đo nhìn nhau hơn thua, nghi kỵ. Không áo mão cân đai giấy tờ phát biểu, chụp hình
quay phim, danh tước hão huyền.
Mặc dù dễ vượt biên, nhưng vì không muốn xa rời mồ mả ông cha, nên số người tìm Tự do sau năm 1975 khoảng hai ngàn. Hầu hết sống tập trung ở
San Francisco
,
San Bernadino
,
Texas
,
Hawaii
và các miền biển đông nam
Hoa kỳ. Cũng có một số rất ít ở xa như Nauy, Pháp, Thụy Ðiển, Úc.... Họ làm việc cần cù siêng năng cần mẫn. Ða số là nghề may, thẩm mỹ, lái taxi, làm biển.... Sau hơn 20 năm người dân bình dị hiền lành, hiếu khách nơi miền biển, đã trưởng thành hội nhập nhanh vào dòng chính mẫu quốc, nên họ có được đời sống, việc làm ổn định. Cho dù sống ở nơi đâu người dân Phú Quý cũng đùm bọc quay quần bên nhau chịu khó dạy dỗ con cái, noi gương Thầy Chúa nên thế hệ thứ hai đã bắt đầu vươn lớn. Mặc dù chưa có số thống kê chính thức nhưng khi thăm dò hỏi thăm, cũng biết khá nhiều con em Phú Quý đã có mặt và đỗ đạt trong các ngành kỹ sư, điện toán,
y, nha, dược và cũng có một số tham gia trong chính quyền sở tại.
Càng đi xa con người lại càng có khuynh hướng nhìn về quê cha đất tổ, mặc dù nơi xa xăm kia chỉ là vách lá cọng rau. Cho dù con cháu lớn lên nơi xứ người nhưng mỗi khi có lễ cúng Thầy Chúa ta thấy trẻ em đông không thua gì người lớn. Ðó là
niềm tự hào và cũng là điều ước mơ chung của các bậc cha mẹ: "đi đâu thì đi, làm gì thì làm. Nhưng đến ngày lễ cúng Thầy Chúa
thì về."
Ðiều chắc chắn rằng những nhân
chứng sống như Nguyễn văn Ðồng Nauy, Ðỗ Minh Hưng San Bernadino, Nguyễn Duy Trung Santa Ana, Ðỗ Minh
Hùng ca sĩ cổ nhạc
Westminster
.... đều xác nhận rằng Thầy Chúa đã và đang phù hộ cho tất cả những người vượt biển tìm Tự Do từ Ðảo và không một người lính VNCH nào tử trận trong cuộc chiến chống CS vừa qua.
2- Dinh Thầy Thiếm tại Hàm Tân, Bình Thuận
Mấy chục năm về trước, khi biển Bình Thuận chỉ cần một chiếc thuyền nan nho nhỏ với cánh buồm lá buông thô sơ, là có thể chạy ven bờ hốt những mẻ lưới đầy cá nục, cá mòi... như lúc nào cũng nhởn nhơ bơi lội trên mặt nước. Trong đất liền thì rừng già ngun ngút, gỗ quý đầy đất nhưng rất ít người khai thác. Do đó vào thời Pháp thuộc, nhiều người Âu, Ấn và Hoa kiều đã tìm đến đây để mau chóng phát đạt hơn các miền khác. Bởi vậy người bản địa ngày xưa đã có câu vè: 'Ai muốn nghỉ mát thì
lên Ðà Lạt, còn muốn hốt bạc thì về Hàm Tân'.
Ðây là một vùng đất có biển cả mênh mộng và rừng núi bạt ngàn, quê hương êm đềm ở đâu nhìn cũng thơ mộng như một bức tranh thủy mạc, trong đó biển khơi xanh ngắt, thảo nguyên rừng núi giao duyên. Toàn huyện hiện có
94.400 ha đất tự nhiên, trong đó rừng chiếm diện tích hơn một nửa diện tích. Rừng Hàm Tân trước đây có rất nhiều gỗ quý, gỗ dầu, bạch đàn, lá buông... theo các chuyên gia ngoại quốc, đất đai ở đây cũng rất thích hợp trong việc trồng dâu nuôi tằm, bông vải, đào lộn hột, các loại cây có chất dầu, bạch đàn và tre nứa.
Hàm Tân có 37 km bờ biển và cũng là một ngư trường lớn của tỉnh Bình Thuận. Bãi biển Hàm Tân cũng rất thơ mộng với nhiễu bãi tắm như Ngảnh, Tam Tân, Ðồi Dương LaGi, Tân Thắng... hầu hết đều đẹp và thơ mộng không thua bất cứ một bãi biển nào trong tỉnh Bình Thuận hay biển Ninh Chữ, Ninh Thuận. Ðây cũng là một tặng phẩm của trời đất dành cho người biển mặn. Ðây còn là quê hương thứ hai của loài
phong lan, sau Ðà Lạt như giống lan nhất điểm hồng, hồ điệp, ngọc điểm... rất được các giới cây kiểng ưa thích.
Trước năm 1975, đường sá trong huyện đã được khai mở rất nhiều, chỉ vì Việt Cộng ngày nào cũng đắp mô, chôn mìn, nên nhiều nơi thành hư hại hoang
phế. Ngày nay nhờ tiền đầu tư lấy lời và đóng thuế tiêu thu tới dân chúng, nên Việt Cộng đã phải nâng cấp sủa chữa và mở mang hệ thống hạ tầng cơ sở theo giao kèo với các chủ nhân ông tư bản. Do trên tới năm 2004, Hàm Tân đã có một hệ thống đường bộ, thiết lộ và thủy vận, tương đối thuận lợi, từ thị trấn La Gi, tới Phan Thiết, Vũng Tàu và Sài Gòn, cũng như xuyên suốt các huyện miền núi
phía tây Tánh Linh và Ðức Linh. Khắp huyện có nhiều khoáng sản như than bùn, cát thủy tinh, sa khoáng, loại đá quý như óp lát,
ti tan... đều lộ thiên, rất dễ khai thác. Hiện đã trồng được hơn 200 ha dâu nuôi tằm, 3000 ha đào lộn hột và 8000 ha bạch đàn. Về ngư nghiệp, toàn huyện hiện có 1160 thuyền đánh cá, với công suất 50.460 mả lực, trong đó có 28 thuyền trọng tải lớn, chuyên đánh cá ngừ đại dương xa khơi, gần hải phận quốc tế và quần đảo Trường Sa. Sản lượng thủy sản thu được từ 30.000-35.000 tấn/1 năm, chiếm 1/3 tổng sản lượng toàn tỉnh Bình Thuận.
Ở Hàm Tân, hiện đã có 159
trang trại chiếm một diện tích 1422 ha. Chăn nuôi cũng phát triển từ năm 2000, với đàn bò lai sind, heo nạc, gà vịt sai trứng. Ngư cảng trên bến Chương
Dương, tại thị trấn La Gi, nơi toàn ghe thuyền trong huyện đậu, được xây kè hai bờ sông Dinh.
Nằm bên hữu ngạn sông
Dinh hiền hòa thơ mộng, thị trấn La Gi có diện tích 6,95 km2 và dân số 30.097 người. Ðây là miền đất chuyên sống bằng ngư nghiệp, chế biến hải sản và phát
triển du lịch tại Bãi tắm Ðồi Dương, Hòn Bà, Ngảnh, Tam Tân, Ðập Ðá Dựng. Dinh Thầy Thím thu hút nhiều khách thập phương. Quốc lộ 55, nối La Gi với suối nước nóng Bình Châu và Vũng Tàu. Tuy nhiên từ năm 2003,
sóng
lớn đã làm sụp lở nhiều nhà cửa dân chúng, lở sâu vào bờ hơn 50 m và chạy dài tới nửa cây số. Ða số các nạn nhân thuộc lớp nghèo, nên không đủ tiền mua đất cắm dùi, phải sống ven cồn và lãnh tai nạn thường xuyên khi trời nổi cơn gió bụi thất thường.
Với bờ biển chạy dài hơn 40 km,
từ Bình Châu (Bà Ria), tới Tân Thuân (Hàm Thuận
Nam
),
với bãi cát trắng, rừng phi lao, tạo nên phong cảnh vừa hoang dã nhưng cũng thật hữu tình, dễ làm mê lòng người khi tới đây du ngoạn và nghỉ mát. Vùng này cũng có rất nhiều di tích cũ, chẳng hạn như Dốc ông Bằng, nơi bắt đầu của đảng cộng sản đệ tam quốc tế, từ Liên xô vào Bình Thuận năm 1930. Dinh Thầy Thím với lối kiến trúc độc đáo, nằm giữa một cánh rừng cô tịch, thờ một sĩ phu triều Nguyễn, vì đời ở ẩn làm nghề thầy thuốc giúp đời. Hằng năm vào rằm tháng chín âm lịch, có lễ tế thu truyền thống, thu hút nhiều khách thập phương từ mọi nơi về cúng bái. Ðập Ðá Dựng có từ thời Pháp thuộc, tạo thành bởi những bờ đá, to nhỏ, hình thụ kỳ dị, chồng chất giữa dòng nước bạc mông mênh. Ðây còn có chùa Một Cột Bình Tuy, đứng giữa rưng hoa anh đào, hương hoa bát ngát, nở rộ vào lúc xuân về. Tại Tân Hải, có một mạch suối nước nóng, trữ lượng chất khoáng và độ sôi cao, không thua gì suối nưóc nóng Bình Châu hay
Vĩnh Hảo.
Do nằm giữa hai trung tâm du lịch lớn là Vũng Tàu và
Phan Thiết, nên Hàm Tân được các nhà đầu tư trong và ngoài nước chú ý đặc biệt và đánh giá cao, bỏ nhiều nguồn vốn đầu tư vào, để xây dựng các tuyến đường bộ trong vùng, dẫn tới khu du lịch. Quôc lộ 1A, qua hai xã Tân Nghĩa, Tân Minh. Quốc lộ 55 chạy ngang
qua bảy xã nối với quốc lộ 1A, với vùng duyên hải, từ La Gi đi Phước Hải, Bình Châu, Bà Rịa. Tỉnh lộ 710, nối liền xã Tân Minh với Tánh Linh, Ðức Linh. Tại Tân Minh, một xã sát nuí, đã có đường đi vào khu kinh tế mới Núi Rao trồng mía và bông vải. Ngay cây số 46, tức là căn cứ 10 cũ, nay là xã Tân Nghĩa, có quốc lộ 55 ngang
qua Tân Hà, Ðông Thuận, Ðông Hiệp, Ðông Hòa, Ðông Thanh.
Ngảnh Tam Tân là một bãi tắm hữu tình, nằm cách
huyện lỵ 10 km, cách bến xe Tân Hải và tỉnh lộ 709 chừng 200m. Ðây là một vùng du lịch, bao gồm Dinh Thầy Thím, Hồ Núi Ðất và Ngảnh. Một vùng biển đẹp như có bàn tay ve vuốt của sóng nước, nổi u tịch của rừng chiều và nét trầm tư muôn đời cũ non cao, mây nổi. Tất cả đã khiến cho mọi người bâng khuâng vương vấn, trước hàng dương liễu vi vút trước gió, tiếng sóng vổ xôn xao và bãi cát trắng mịn màng,
như chờ đợi trong lặng lẽ muôn đời. Tóm lại từ ngày mở cửa, khu bãi biển Tam Tân (Tân Hải), đã đón hàng vạn du khách đến đây tắm biển, vui chơi trước non nước hữu tình. Ngoài ra, mọi người đến đây còn có chủ yếu là đi cầu lộc, cầu tài ở Dinh Thầy Thím. Theo lệ, thì năm này xin lộc, năm sau phải đến trả, cứ như thế cái vòng nợ nần cứ quay tròn.
Hàng năm, sau tết Nguyên
Ðán, mùa câu thu lại về và thường kéo dài tới ba tháng, bắt đầu từ tháng ba. Suốt thời gian này, các thuyền câu cá thu, có công suất từ 56 CV trở lên, làm
những chuyển biển xa khơi dài ngày, từ 20-30 tháng. Vùng đánh cá thu quen thuộc, thường là ngư trường quanh Côn Ðảo, Trường Sa, Lạch Dù, rạng Xanh, Rạng Ông Bá...
Trong số 3000 thuyền đánh cá của địa phương, có chừng 100 chiếc công suất lớn, có thể vượt biển xa. Thuyền đánh cá thu, khi ra khơi thường mang theo cả trăm cây nước đá, lương thực và xăng dầu dùng đủ một tháng biển. Thuyền câu cá thu thường có 7-8 người bạn, đều trang bị câu tay và câu vàng. Cần câu tay cá thu thường dài khoảng 3m, bằng tre đặc, trên đầu có gắn một khoen đồng có đường kính 1 lóng tay. Cước câu thu, dài từ 80-100m, được cuộn trong một ống câu gỗ, có xẻ rãnh để giữa cước đừng tuộc. Trước khi móc lưỡi, dây cước được luồn qua khoen đồng, để thuận tiện khi quăng câu thêm xa, hoặc thu dây về khi cá cắn câu.
Loại câu vàng rất tốn kém. Cước lớn có đường kính bằng chiếc đũa, chiều dài từ 500-2000m. Ngoài ra còn phải mua cước nhỏ, phân thành nhiều đọan nhỏ, từ 3-4m. Trên đoạn dây Triên (dây lớn), cứ cách khoảng 15m, cột một dây Thẹo (dây nhỏ), đoạn cuối buộc một chùm lưỡi câu độ 3, 4 chiếc theo hình nhánh. Phải nối sao, để khi cần giật rời Thẹo khỏi Triên, khi cần thu câu bằng trục máy. Hiện có tới 1/3 thuyền câu cá thu, đều trang bị câu vàng dài tới 2000m. Dùng mồi cá nục sồ sống và các loại dây ny lon ngủ sắc, để làm mồi câu cá thu, lại còn phải biết nhìn con nước, để đón độ sâu mà thả câu. Nhờ đầy đủ kinh nghiệm nên họ thu hoạch dáng kể vào những ngày mùa.
+ Dinh Thầy Tại Tam Tân:
Là một ngôi đền năm giữa một khu rừng già trong tỉnh Bình Thuận, cách thị xã La Gi về hướng đông nam chừng 12 km nhưng không xa huyện lỵ Tam Tân là mấy. Ðền gồm ba gian, kiến trúc theo lối đình làng xưa, nằm ẩn mình dưới những tàn cây cổ thụ lâu đời. Phong cảnh cô tịch, rừng núi hoang sơ, khiến cho ai tới đây, củng thêm lòng sùng bái một nơi chốn thiêng
liêng và sự tin tưởng vô hình, huyền bí về Thầy, cũng là vị thần được thờ và giổ tế hằng năm vào các ngày 15 và 16 tháng chín âm lịch.
Cũng giống như Thầy Chúa ở Phú Quý,
tiểu sử Thầy tại dinh Tam Tân, đến nay cũng chưa ai biết, mà chỉ là huyền thoại hay lời đồn mà Hội Tam Quy, thu thập và ấn hành phát cho khách hành hương khi tới trẩy hội.
Theo tài liệu, Thầy sinh vào thời chúa Nguyễn Phúc Ánh, tại làng La Qua, phủ Ðiện Bàn, tỉnh Quảng
Nam
.
Ngoài ra còn có Thím sinh tại Yến Nê. Lúc thiếu thời, thầy có theo bút nghiên đèn sách nhưng khoa
danh lận đận, nên bỏ đời vào núi tu đạo giúp đời, dẫn độ chúng sanh, cưa dân độ thế, chữa bệnh và dạy người sống theo lễ nghĩa thánh hiền.
Rồi biến cố xảy ra, thầy và thiếm bị chính
vua Tự Ðức, trong cuộc xử án, đã ban tội chết bằng tam ban triều diễn. Ngày hành quyết, trước đông đủ dân chúng, triều thần và nhà vua, thầy thiếm dùng vải điều đỏ biến thành cặp rồng bay về phương nam lánh nạn tại rừng Tam Tân, trong huyện Tuy Lý, tỉnh Bình Thuận.
Cũng như khi còn
sống tại Quảng
Nam
,
thầy thím lại tiếp tục cứu dân độ thế, chữa bệnh, giúp gạo cơm cho dân chúng trong vùng, cho nên ai cũng kính mến và xưng tụng là thầy. Tiếng tăm lừng lẩy lan
tràn, khiến mọi ngươi gần xa tìm đến theo học đạo. Ðể tránh thị phi, thầy thiếm sống ẩn trong rừng sâu để lánh đời nhưng khi dân chúng gặp tai ương hoạn nạn, vẫn xuất hiện cứu độ. Thầy thím chết trong một lều tranh giữa rừng, được an táng tại Bàn Thông và mỗi năm dân chúng trong vùng, tổ chức hai lần lễ, mồng năm tháng
giêng là ngày tảo mộ và giỗ tế vào rằm tháng chín.
Do cảm hóa công đức của thầy thím, dân làng trong vùng Tam Tân lập Dinh thờ phụng cúng tế hàng năm. Dinh
theo thời gian nhờ tài vật của khách thập phương, lần hồi biến đổi, qua nhiều lần tu bổ, trở nên nguy nga tráng lệ như ngày nay. Về sau, qua
những lời đồn đãi của dân chúng gần xa, vua Tự Ðức cho quan vào tận Tam Tân dò xét dư luận để tìm sự thật. Biết mình đã giết lầm người hiền tốt, nên vua ban chiếu xá tội cũ và phong cho thầy làm 'Chí Ðức Tiên Sinh' và thím 'Chí Ðức Nương Nương'.
Theo lời dân chúng, sau khi mất, thầy vẫn thường hiện về phù hộ cho dân chúng trong vùng Tam Tân được an cư lạc nghiệp, càng
làm cho người người tôn kính thêm và cũng vì thế, càng
lúc càng làm giổ thầy thêm lớn và ngày giổ này, hiện đã trở thành ngày hội Dinh Thầy.
Dinh có bề dầy lịch sử theo sự ra đời của mãnh đất Tam Tân, thuộc tỉnh Bình Thuận. Ðường vào Dinh Thầy hiện có nhiều lối, tuỳ theo hướng khởi hành nhưng chung qui mọi người vẫn ghé thị trấn La Gi trước, trên đường về Dinh.
La Gi nằm cách Vũng Tàu 90
km. Ði trên quốc lộ 1, tới ngả ba cây số 46 chạy qua các xã Tân Nghĩa, Tân Hà, Tân Xuân và Tân An trên quốc lộ 55. Sông
Dinh chảy ngang qua thị trấn ra biển, có cầu Tân Lý bắc ngang sông. Ðường 709, qua các xã Tân Bình, Tân Thiện, cầu Ðá Dựng tới Dinh Thầy.
Vào những ngày hội, Hàm
Tân trở nên náo nhiệt lạ thường, kể cả thời gian trước ngày 30-4-1975, khu vực Tam Tân không mấy an ninh nhưng dân chúng từ khắp nơi, xa từ Quảng Trị, Thừa Thiên vào hoặc lục tỉnh, Sài Gòn, Chợ Lón và gần như Long Khánh, Tánh Linh, Phan Rang, Phan Thết... ai nấy đến đây, cũng chỉ để hành hương, viếng mộ và xin xăm cầu phước. Hội Dinh Thầy thật ra không có cổ tục hay trò vui gì, nhưng khách trẩy hội tới đây, hầu hết đều với lòng chân thành, tôn kính một bậc hiền giả, cứu đời độ thế... được tôn xưng là Thầy.
Cuối năm 2006 Phú Quý bị bão càn
quét làm thiệt hại nặng nề, khiến 739 trong tổng số 1034 tàu đánh cá trên đảo bị chìm và 3844 căn nhà của đồng bào bị sập hay trốc nóc, đó là chưa kể tới nhiều cơ sở hạ tầng bị bão phá hủy. Hậu quả sau khi cơn bão dứt, đã làm cho nền kinh tế cũng như cuộc sống của người dân địa phương gần như kiệt quệ vì các phương tiện kiếm sồng không còn, đối với 13.000 ngư dân dựa vào nghề biển. Lá lành đùm lá rách, người Phú Quý hải ngoại lại tuôn tiền về giúp thân nhân trong cơn hoạn nạn, để sửa nhà mua đóng lại tàu thuyền mới nhưng nói vậy chứ chưa biết tới bao giờ, đồng bào mới lấy lại cuộc sống hạnh phúc năm nào.
Tóm lại dù ai có đi ngược về xuôi, nhưng đối với người Bình Thuận, cho dù có sống nơi nào chăng nữa, hằng năm ngoài các dịp hội Tết Nguyên Ðán, Lễ Phật Ðản, Vu Lan, Trung Thu, Giáng Sinh... đồng bào
trong cũng như ngoài nước, vẫn có thêm nhiều lễ hội khác như Cúng Ông Nam Hải, Quan Thánh Ðế Quân, Thầy Chúa, Thầy Thiếm, Ngày Thanh Minh tảo Mộ ông bà cha mẹ... Tất cả những lễ cúng giỗ này đều theo đúng truyền thống và nghi thức tế tự bao đời truyền lại. Ðây cũng là nét đặc trưng của người dân miền biển mặc.
Trong không khí thiêng liêng ấm áp của Ngày Vu
Lan năm nay nơi quê người, khiến cho cõi lòng khô cóng của người lính già thêm tê tái, khi hoài vọng về chốn quê xa,
thương tiếc cha mẹ sớm qua đời, không biết bây giờ có còn được yên nghỉ giấc ngàn thu hay đã bị xiêu mồ lạc nấm, từ khi VC ra lệnh cầy hốt Nghĩa Trang cạnh Lầu Ông Hoàng, trên đường Phan Thiết-Mũi Né-Hòn Rơm, từ cuối năm 2004.
Mùa Vu Lan 2007
Xóm Cồn tháng 7 âm lịch
Mường Giang
=END=
4- Tham Khảo
- Khuông mẫu hiến pháp của một quốc gia đa dạng trong tiến trình thành lập chính phủ
Nguyễn Học Tập
(VNN)
A- Năm 1947 trong bối cảnh Hiến Pháp được soạn thảo, Ý Quốc sau thế chiến II là một Quốc Gia phân tán về mặt xã hội và chính trị, cùng với những hố sâu (cleavages) cách biệt về xã hội và kinh
tế, giữa chủ và thợ, giữa nông nghiệp và kỷ nghệ, giữa miền Bắc và miền Nam, trung ương và địa phương.
Làm thế nào để "hoà hợp và hội nhập" (unità ed integrazione) mọi thành phần xã hội thành một cộng đồng dân tộc đồng nhứt, cùng sống trên một lãnh thổ, được tổ chức theo một thể chể (định nghĩa Quốc Gia trong chính trị học)?
Mục đích đó của tổ chức Quốc Gia được Hiến Pháp tuyên bố và quy trách cho Thể Chế Cộng Hoà tương
lai của Ðất Nước:
- "Bổn phận của Nền Cộng Hoà là dẹp bỏ đi những chướng ngại vật về phương diện kinh tế và xã hội, là những chướng ngại, trong khi giới hạn thật sự tự do và bình đẳng của người dân, không cho phép mỗi người triển nở hoàn hảo con người của mình và tham gia một cách thiết thực vào tổ chức chính trị, kinh tế và xã hội của Ðất Nước" (Ðiều 3, đoạn 2 Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
Ðiều mà chúng ta có thể nói ngay
khi đọc điều khoản vừa kể của Hiến Pháp 1947 Ý Quốc, mục đích ưu tiên và tối thượng của của tổ chức Quốc Gia, được đặt ngay ở một trong những điều khoản đầu tiên của Hiến Pháp (điều 3, đoạn 2), là để "cho phép mỗi người triển nở hoàn hảo con người của mình" ngay cả trước khi đề cập đến phát triển Ðất Nước, "...và tham gia một cách
thiết thực vào tổ chức chính trị, kinh tế và xã hội của Ðất Nước".
Nói cách khác, mục đích của tổ chức Quốc Gia được Hiến Pháp là văn bản nền tảng và bảo chứng là "Thăng Tiến con người và Thăng Tiến xã hội " tiếp theo,
chớ không ngược lại.
Con người có được "triển nở hoàn hảo con người của mình", mới có khả năng, ước vọng, có được môi trường thích hợp, hợp với lý tưởng sống của mình, mới có thể "tham gia một cách thiết thực vào tổ chức chính trị, kinh tế và xã hội của Ðất Nước".
Nhưng làm thế nào để hoà hợp và hội nhập mọi thành
phần xã hội thành một cộng đồng dân tộc, trong đó
- "Không ai có thể bị thiệt thòi hay được ưu đãi vì lý do phái giống, sinh trưởng, chủng tộc, ngôn ngữ, quốc tịch, tín ngưỡng hay chính kiến" (Ðiều 3, đoạn 3 Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Ðức)?
Nói cách khác trong Thể Chế Nhân Bản và Dân Chủ, không
ai là công dân hạng hai bị tổ chức Quốc Gia miệt thị và đối xử bất công, so với con ông cháu cha hay các "đồng chí" có máu mặt, thuộc Trung Ương
Ðảng chẳng hạn.
Làm sao thực hiện được mục đích đó?
Câu hỏi được các vị soạn thảo Hiến Pháp
1947 Ý Quốc quy trách cho các chính đảng, là những tổ chức đươm kết các nguồn tài nguyên chính trị, phải đảm lấy trách nhiệm "đại diện cần thiết" của mình trong cơ chế Quốc Gia đứng ra đảm nhận.
Và đó là những đặc điểm mà chúng ta có thể tìm thấy trong
Hiến Pháp 1947 Ý Quốc, Hiến Pháp của một Quốc Gia bị phân tán về xã hội và chính trị cũng như bị kiệt quệ đổ nát về kinh tế sau thế chiến II (Giuliano Amato, Costituzione, mutamento sociale,
riformabilità, in Consiglio Regionale della Toscana (a cura di), Quattro lezioni
sulla Costituzione, p. 38).
Thay vì nhấn mạnh đến các tình trạng khác biệt và phân hoá, Hiến Pháp chọn lựa "một định chế được thảo ra để huấn dạy mọi thành phần biết chung sống, tạo nên những nhịp cầu mà dần dần các phe phái khác biệt có thể bước qua để gặp nhau, trao đổi ý kiến với nhau và đồng thuận nhìn về lợi ích chung của Ðất Nước" (Giuliano Amato,
id., p. 39).
Ðịnh chế đó của Hiến Pháp
1947 Ý Quốc gồm hai đặc tính:
- đặc tính thứ nhứt là một hệ thống các giá trị về con người (hay giá trị Nhân Bản) mà các
Hiến Pháp của các thập niên 1800 tuyên dương làm thành những nguyên
tắc phổ quát cho mọi cộng đồng dân tộc để tổ chức một cuộc sống xã hội văn minh (từ điều 2-54 Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
Và đó cũng là những gì được Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Ðức nhắc lại:
* "Nhân phẩm con người bất khả xâm phạm. Bổn phận của mọi quyền lực Quốc Gia là kính trọng và bảo vệ nhân phẩm đó.
Như vậy dân tộc Ðức nhận biết các quyền bất khả xâm phạm và bất khả nhượng của con người như là nền tảng của mọi cộng đồng nhân loại, của hoà bình và công chính trên thế giới" (Ðiều 1, đoạn 1 và 2
Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Ðức).
- đặc tính kể đến, (bàn bạc trong suốt 139 điều khoản của Hiến Pháp), là phương thức tiền liệu được đề ra để bảo vệ và cũng như cổ võ phát
triển những bậc thang giá trị được Hiến Pháp đứng ra "nhận
biết và bảo đảm" đối với bất cứ ai, bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào,
chống lại các cách hành xử quyền lực tùy hỷ của cá nhân hay đảng phái cầm quyền (Mario Dogliano, Interpretazioni della Costituzione, Angeli,
Milano 1982, 52 - 57):
* "Nền Cộng Hoà nhận biết và bảo đảm các quyền bất khả xâm phạm của con người, con người như cá nhân hay con người như thành phần tổ chức xã hội trung gian, nơi mỗi cá nhân phát huy con người của mình và đòi buộc các bổn phận liên đới không thể thiếu trong lãnh vực chính trị, kinh tế và xã hội" (Ðiều 2, Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
Như vậy "định chế chung cư" của "một cộng đồng dân tộc, cùng sống trên một mảnh đất, được tổ chức theo một định chế " đã được các vị soạn thảo Hiến Pháp 1947 Ý Quốc đề ra, như là chất keo để hoà hợp (unità) và hội nhập (integrazione) mọi thành phần xã hội và
chính kiến khác biệt thành "một cộng đồng dân tộc".
Ðó là ý thức hệ Nhân Bản và Dân
Chủ được viết thành văn bản Hiến Pháp Bảo Chứng.
B- Ðứng trước mục đích hay "tham vọng lớn lao" hoà hợp và hội nhập mọi thành phần dân chúng không phân biệt thành phần chính
kiến, điều kiện cá nhân hay xã hội như vừa kể vào "một cộng đồng dân tộc", nhiều ý kiến được đưa ra để tổ chức cơ chế Quốc Gia, nhứt là tổ chức Chính Quyền.
a) Giáo sư Costantino Mortati
thuộc "Phó Ủy Ban Ðặc Trách 75" (Sotticommissione 75) của Quốc Hội Lập Hiến, đưa
ra đề nghị là để hoạt động được hữu hiệu và địa vị không quá bấp bênh, Chính Quyền phải được hiểu như một cơ quan "giữa đường", giữa hình thức Chính Quyền Ðại Nghị Chế (dễ lắc lư tùy hứng tín nhiệm hay bất tín nhiệm của Quốc Hội) và Hội Ðồng Ðiều Hành (Directoire) của Thụy Sĩ.
Chính Quyền
- phải được sự tín nhiệm của Lưỡng Viện Quốc Hội (đúng, vì là Chính Quyền Ðại Nghị Chế, phải tùy thuộc vào Quốc Hội, tiếng nói
dân cử),
- nhưng đồng thời Chính
Quyền đó cũng phải được Hiến Pháp bảo đảm cho có được thời gian bền vững để hoạt động ít nhứt là 2 năm, kể từ ngày được thành lập.
Chỉ trong trường hợp có sự bất đồng liên tục, dai dẳng và có hệ thống giữa Chính Quyền và Quốc Hội, Tổng Thống mới cần phải chuẩn định xem có nên giải nhiệm Chính Quyền hay giải tán Quốc Hội trước định kỳ (Bruno Fernanda, i giuristi alla Costituente: l'opera di Costantino Mortati,
in De Servio Ugo (a cura di), Scelte della Costituente e cultura giuridica, Il
Mulino, Bologna 1980, vol II, 132s).
b) Giáo sư Tosato Egidio, một nhân vật lỗi lạc khác
trong Quốc Hội Lập Hiến cho rằng để đạt được mục đích "tham vọng lớn lao" của Hiến Pháp, Quốc Gia cần có được một Chinh Quyền Dân Chủ, hoạt động hiệu năng và bền vững. Muốn có vậy,
- lúc khởi đầu Lưỡng Viện Quốc Hội phải nhóm họp lại thành Hội Ðồng Quốc Gia (Assemblea Nazionale) tuyển chọn một ứng cử viên Thủ Tướng một trong những nhân vật trong danh sách được Tổng Thống đề nghị, sau khi đã tham khảo ý kiến các chính đảng.
- Ứng cử viên nào được đa số phiếu tuyệt đối của Hội Ðồng Quốc Gia, Tổng Thống phải bổ nhiệm.
- Nếu ở vòng đầu không có ứng viên nào được đa số tuyệt đối, trong phiên bỏ phiếu lần thứ hai, ứng viên được đa số phiếu tương đối cũng được coi là hội đủ điều kiện để được tuyển chọn (Armaroli Publio, Introvabile governabilità; Cedam, Padova 1986,
47).
Ngoài hai đề nghị quan trọng vừa kể, còn một số đề nghị khác nữa.
Các đề nghị được "Phó Ủy Ban Ðặc Trách 75" của Quốc Hội Lập Hiến nghiêng
cứu với kết quả là
- Chính Quyền phải được Tổng Thống bổ nhiệm,
- Sau khi bổ nhiệm Chính
Quyền phải được Quốc Hội tín nhiệm,
- Quốc Hội chỉ có thể bất tín nhiệm Chính
Quyền đương nhiệm qua một phiên họp Hội Ðồng Quốc Gia (cả hai Viện Quốc Hội đều được triệu tập họp chung),
- và Thủ Tướng Chính
Phủ được giao cho trong trách lãnh đạo và chịu trách
nhiệm về đường lối chính trị Quốc Gia của cả Nội Các (Pitruzella Giovanni, Presidente del Consiglio dei Ministri
e l'organizzazione del Governo, Cedam, Padova 1986, 172s).
Phần nghiên cứu vừa kể của "Phó Ủy Ban Ðặc Trách 75" sau cùng được đúc kết thành
hai điều 94 và 95 Hiến Pháp 1947, đặt nặng vấn đề ở hai đề mục:
- Thủ Tướng Chính
Phủ được Tổng Thống bổ nhiệm, sau khi cuộc thăm dò ý kiến các chính đảng và được vị Thủ Tướng đặc trách cho rằng mình có thể đảm nhận vai trò thành lập Chính Phủ, được đa số tuyệt đối trong Quốc Hội đồng thuận tín nhiệm.
- Kế đến theo lời đề nghị của Thủ Tướng được bổ nhiệm, Tổng Thống sẽ bổ nhiệm các Bộ Trưởng trong Nội Các Chính Phủ.
- Chính Quyền phải được sự tín nhiệm của Lưỡng Viện Quốc Hội (nhưng mỗi Viện có thế họp để bỏ phiếu riêng, thay vì phải họp nhau thành Hội Ðồng Quốc Gia).
- Chính hướng lãnh đạo Quốc Gia được giao cho trách nhiệm của Thủ tướng và của cả Nội Các Chính Phủ:
"Chính Quyền phải được sự tín nhiệm của cả Hai Viện Quốc Hội.
Mỗi Viện có thể tín nhiệm hay thu hồi sự tín nhiệm qua một cuộc bỏ phiếu có lý chứng và bỏ phiếu bằng các phiếu điểm danh" (Ðiều 94, đoạn 1 và 2 Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
"Thủ Tướng Chính Phủ lãnh đạo chính hướng tổng quát của Nội Các và nhận lãnh trách nhiệm. Bảo đảm hợp nhứt đường lối chính trị và quản trị, bằng cách cổ võ và phối hợp hoạt động của các Bộ trưởng".
Các Bộ trưởng có trách nhiệm tập thể về các hành động của Nội Các Chính Phủ, và mỗi cá nhân về các hoạt động các Phân Bộ của mình" (Ðiều 95, đoạn 1 và 2, id.).
Ðọc qua hai điều 94 và
95 vừa trích dẫn, chúng ta thấy được nhiều nguyên tắc tổ chức Chính Phủ khác nhau, là kết quả từ nhiều điều kiện xã hội và chính trị khác biệt của đất nước, sau nhiều cuộc bàn cải, thảo luận, nhân nhượng và đồng thuận về đường lối lãnh đạo Quốc Gia, chương trình hành động, phương tiện để hành xử, nhân sự được sắp xếp tùy theo ảnh hưởng của từng chính đảng và khả năng chuyên môn của các thành viên.
Ðó là phương thức "dân chủ trung gian điều giải" (democrazia mediata), phương thức thành lập Chính
Phủ của phần lớn các Quốc Gia đa diện Tây Âu, được thực hiện không do trực tiếp thành quả của các cuộc bỏ phiếu chỉ định, mà do những cuộc thăm dò, bàn thảo, nhân nhượng giữa các chính đảng và các tổ chức xã hội trung gian sau đó.
Ðó là một Chính Quyền Dân Chủ được thành lập
- do việc Tổng Thống bổ nhiệm Thủ Tướng và các Bộ Trưởng,
- các Bộ Trưởng được Tổng Thống bổ nhiệm theo lời đề nghị của Thủ Tướng (điều 92, Hiến Pháp 1947 Ý Quốc)
- Nội Các Chính Phủ trước khi nhận lãnh chức vụ hành pháp phải tuyên thệ trong tay Tổng Thống (điều 93, id.).
- Sau 10 ngày được thành lập, Nội Các Chính Phủ phải đến trình diện trước Quốc Hội, để được Quốc Hội tín nhiệm (điều 94, đoạn 3, id.).
- Sự tín nhiệm hay bất tín nhiệm của Quốc Hội được tuyên bố qua một cuộc bỏ phiếu có lý chứng và bỏ phiếu bằng các phiếu điểm danh (điều 94, đoạn 2, id.).
Ðó là hình thức Chính Quyền Dân Chủ Liên Hiệp, được tổ chức theo
- nguyên tắc trách nhiệm tự lập của mỗi Phân Bộ trong Chính Phủ,
- nguyên tắc lãnh đạo tập thể đường lối chính trị Quốc Gia của Thủ Tướng cùng chung với Hội Ðồng Nội Các,
- nguyên tắc trách nhiệm lãnh đạo đường lối chính trị cá nhân của Thủ Tướng.
Ý thức được tình trạng xã hội và
chính trị phân hoá của đất nước, các vị soạn thảo Hiến Pháp 1947 Ý Quốc không có ý đóng khung phương thức tổ chức Chính Quyền trong khuôn thước cứng rắn.
Các vị viết điều 94 và
95 của Hiến Pháp 1947 Ý Quốc thành những định hướng cho nhiều phương thức giải quyết khác nhau theo trương độ và cường độ liên hiệp của Chính Quyền, nhằm đạt được mục đích tối thượng và trung tâm điểm của Hiến Pháp, được các vị viết lên ngay ở các điều khoản đầu tiên, "hoà hợp và hội nhập" (unità ed integrazione) mọi thành phần dân tộc trong mục đích:
- "...cho phép mỗi cá nhân triển nở hoàn hảo con người của mình và tham gia một cách thiết thực vào tổ chức chính trị, kinh tế và xã hội của xứ sở" (Ðiều 3, đoạn 2 Hiến Pháp
1947 Ý Quốc).
=END=
5- Câu Chuyện Việt Nam
- Kinh
hoàng nem công chả phượng
Văn Quang
(VNN)
Hai trận đấu tứ kết của Asian
cup vừa khép lại vào đêm 21-7. Cả hai đội VN và Australia đều thất bại trước Iraq và Nhật Bản. Vì thế phần tường trình về hai trận tứ kết sớm, xin để trong phần sau của bài này.
Trở lại với những chuyện lẩm cẩm tại VN
trong tuần vừa qua, chuyện đáng nói nhất là chuyện quật mồ heo bệnh, heo chết để bán cho các nhà hàng làm nem, chả, chà bông và vô số thứ thực phẩm quen
dùng hàng ngày khác, đang thật sự là gây kinh hoàng cho người dân toàn quốc. Nguồn tin xuất phát từ huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.
Nguồn tin được kể qua người dân tại nơi đó. Ông Nguyễn Quốc Minh, ở thôn 2, xã Bình Phục kể lại bà hàng
xóm có con heo nái hơn một tạ lăn ra chết dịch, phải nhờ 4 người khiêng ra bãi cát chôn lấp. Trên đường về, đám người này gặp nhóm chuyên nghề mua heo (tục gọi là "lái heo"). Họ lân la làm quen rồi nhờ những người chôn heo chỉ chỗ chôn và trả cho cánh chôn heo 150.000 đồng. Ðối với người dân thôn quê, 150 ngàn đồng là số tiền khá lớn mà
không phải vất vả gì. Ðám lái heo lập tức quật xác heo lên, xẻ thịt mang đi, chỉ vứt lại bộ lòng.
Nguồn tin được xác minh thêm bởùi vợ chồng ông Nguyễn Hữu Chính ở thôn 3, xã Bình Ðào, cũng có 3 con heo nái lăn ra chết dịch, phải đem chôn ở động cát ngoài rừng dương. Trưa hôm trước chôn, vùi sâu dưới cát, hôm sau ra, chỉ thấy còn mấy bộ lòng
heo. Ông Chính kể: "Xác heo đã bị ai đào trộm, mang thịt xương đi rồi. 14 con heo nái chết dịch chôn ở đây cũng chung
số phận chết không toàn thây như vậy".
Hiện bệnh này ở heo đã lan ra
52 xã thuộc 6 huyện, thị của Quảng Nam và đã lan sang Ðà Nẵng, Quảng Ngãi.
Tại tỉnh Quảng Nam có
44 xã, phường thuộc 6 huyện thị với gần 20.000 heo nhiễm bệnh tai xanh, nhưng rất nhanh, dịch đã lan ra 52 xã phường với tổng số heo bệnh là 21.900 con. Tại Ðà Nẵng, từ ngày 5 đến 17-7, dịch đã xảy ra ở 7 xã, phường thuộc huyện Hòa Vang và Cẩm Lệ với gần 400 heo bệnh, trong đó 6 con chết. Tại Quảng Ngãi, Cơ quan Thú y vùng 4 nhận mẫu bệnh phẩm heo tại một nhà chăn nuôi ở huyện Tư Nghĩa. Kết quả xét nghiệm dương
tính với virus bệnh tai xanh.
Dịch bệnh tai xanh bùng phát từ bao giờ
Heo mắc "bệnh tai
xanh" là thứ bệnh lần đầu tiên tôi nghe thấy. Theo Trung tâm chẩn đoán thú y Hà Nội cho biết, bệnh tai
xanh còn gọi là bệnh bí hiểm có tên khoa học là hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản ở heo (PRRS). Bệnh này do virus Lelystad gây ra. Thứ virus này tấn công
vào đại thực bào - cơ quan có nhiệm vụ tiêu diệt vi khuẩn, virus xâm nhập vào cơ thể heo. Ðại thực bào bị giết chết sẽ làm giảm chức năng của hệ thống bảo vệ cơ thể, làm tăng nguy cơ nhiễm các bệnh kế phát như: tả, thương hàn, liên cầu khuẩn, hen suyễn... Thực tế, tại các ổ dịch tai xanh ở miền Bắc xuất hiện vào tháng 3-4 vừa qua, xét nghiệm mẫu bệnh phẩm cho thấy heo hay mắc bệnh thường chết vì căn bệnh này.
Nỗi kinh hoàng ám ảnh người dân
Nghe tin này, không chỉ người dân ở Quảng Nam, Ðà Nẵng hoặc toàn miền Trung ghê sợ mà hầu như cả ở miền Nam, miền Bắc cũng ớn lạnh. Bọn lái heo bất lương kia đã làm việc này từ bao lâu nay rồi? Không ai biết. Bán đi những nơi nào, cũng chẳng ai kiểm soát được. Như vậy là trong toàn quốc, thứ thịt heo quật mồ từ heo bệnh, heo chết vẫn được ung dung tiêu thụ. Và tất nhiên, các chợ búa, các nhà hàng, từ bình dân đến cao cấp đều đã có "hân hạnh" được dùng món thịt heo... thơm phức kia mà không một thực khách nào có thể ngờ tới được. Ngay cả đến những thứ thực phẩm được chế biến sản xuất thành pa-tê, jambon... bán đầy ở các cửa hàng cửa hiệu sáng
choang cũng có thể lẫn lộn thứ heo "kinh khủng" này.
Bọn làm ăn bất lương
không từ một thủ đoạn nào không dám làm. Chúng trộn lẫn heo chết heo, bệnh vào thịt heo tươi
của các nhà giết nhỏ lẻ ở thôn quê, đến thịt heo vừa được mang từ các lò chuyên nghiệp ở thành phố lớn được coi như "bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm" ra bán. Có mà trời biết. Thế là, từ thành thị tới thôn quê, đều đã có "cơ hội" được nếm thử món heo hổ lốn này. Người nào cũng cảm thất bị ám ảnh đến lợm giọng, đến nỗi có những gia đình lúc này không dám ăn thịt heo nữa.
Nhưng đó chỉ là nỗi ám ảnh bởi những chuyện đã qua.
Thôi thì cho nó qua luôn cho đỡ sợ.
Câu hỏi còn bỏ ngỏ
Nói đến chuyện bây giờ, những cửa hàng
chuyên bán thực phẩm đông lạnh, thực phẩm khô, như chà bông, pa-tê, dăm bông, xúc xích... trông đẹp lộng lẫy như nem công chả phượng, treo đầy trong những chiếc tủ kính ướp lạnh, sáng choang, bóng loáng trong các căn nhà
"hoành tráng", kể cả các siêu thị, có thật là không có loại thịt heo "khiếp đảm" kia không? Làm cách nào kiểm tra được? Câu hỏi này không dễ trả lời chút nào. Nó đã, đang và sẽ còn bỏ ngỏ. Cho dù những anh cán bộ Y tế, cán bộ an toàn thực phẩm, có thiện chí tới đâu cũng thua. Máy móc kỹ thuật kiểm soát không có, tay nghề lơ mơ, thêm
vào cái bệnh quan liêu, tham nhũng thâm căn cố đế nữa thì thua to là cái chắc. Ðấy là chưa nói tới có hàng
trăm hàng ngàn cửa hàng lớn nhỏ, có hàng triệu mặt hàng, làm sao "kiểm" cho nổi?
Người dân lại đành tự bảo vệ lấy mình.
"Cái gì độc hại thì dân tự lo, cái gì không độc hại thì cán bộ "no". Câu ấy như đã thành
tiền lệ, thành một thứ "văn hoá phổ biến", chỉ có điều là nó không được viết thành những băng rôn, biểu ngữ long trọng treo trước những "khu phố văn hoá"... đầy những dân ghiền và mua bán ma tuý.
Dân thành phố đã nhịn thịt gà, bây
giờ lại nhịn thêm thịt heo. Mấy bác nhà quê thế mà sướng. Ngay vùng tôi ở, người ta không còn mua thịt heo trôi nổi ngoài chợ, đã bắt đầu áp dụng biện pháp "đánh đụng", tức là nhiều nhà chung nhau lại làm thịt một con heo, xẻ thịt chia nhau. Hoặc cùng lắm là đến tận nhà người làm thịt heo, mua ngay khi làm thịt cho chắc ăn. Nếu cần thì cứ gà nhà
ta nuôi, ta ăn, cá nhà ta thả ta vớt, cây nhà ta có trái ta hái. Thế là chẳng sợ gì những loại hoá chất độc hại. Dân nhà quê sống ít bệnh và sống thọ hơn dân thành phố là thế. Có lẽ nhiều người vẫn cho rằng chết thì không sợ, ai cũng phải chết, nhưng bệnh tật mới là điều đáng sợ nhất.
Có bao nhiêu người mắc bệnh từ heo tai xanh?
Nguồn tin mới nhất ngày
22-7-2007, tôi vừa nhận được, đã có hơn 40 người mắc bệnh liên cầu heo (bệnh heo tai xanh) ở Hà Nội và TP Sài Gòn do ăn, tiếp xúc với heo mắc bệnh bởi không
thể phát hiện heo mắc bệnh bằng mắt thường, cho nên đây thật sự là mối lo ngại cho sức khoẻ của người tiêu dùng.
- Bệnh rất dễ mắc
Theo các bác sĩ tại Viện Các bệnh nhiệt đới và truyền nhiễm quốc gia, 22 bệnh nhân mắc bệnh liên cầu heo vào điều trị tại viện, mỗi người có một nguyên nhân mắc bệnh khác nhau. Một sinh viên về quê nghỉ hè giúp mẹ bán thịt heo tại chợ. Sau vài ngày đứng bán hàng, cô bé này bắt đầu sốt cao, co
giật, gia đình vội chuyển đến viện. Lúc này cô bé đã bị viêm màng não cấp rất nguy hiểm đến tính mạng. Khi xét nghiệm phát hiện đã nhiễm liên cầu heo và phải điều trị tích cực mới qua khỏi.
Một nam bệnh nhân
làm nghề buôn heo, hàng ngày tiếp xúc với heo sống còn việc giết mổ thuê người làm nhưng vẫn mắc bệnh. Một bệnh nhân nữa trong nhà nuôi ổ heo xề có 4 con heo con bị ốm. Hàng ngày chăm sóc đàn heo thế là nhiễm bệnh phải đi cấp cứu. Bệnh nhân Vũ Ðình Ðấu, 61 tuổi ở Hưng Yên,
khi vào điều trị tại viện tưởng đã không qua khỏi, qua thời gian điều trị tích cực đến nay đã ổn định. Còn nguyên nhân, chỉ là do ăn thịt heo mua
ngoài chợ, đến hai ngày sau sốt cao hôn mê. Hậu quả vì bị hoại tử nặng, các
bác sĩ phải tháo bỏ các ngón chân của ông Ðấu.
Như thế nguy cơ của heo bệnh tai
xanh lan sang người đang là mối đe doạ và nguy cơ tử vong cũng không phải là nhỏ. Còn bao giờ nó lan vào miền Nam thì... chưa biết. Cũng như những thứ bệnh H5N1 từ Hà Nội tới Cà Mau chẳng bao xa.
Lái heo "rình mò" heo chết hơn cả thú y
Ông Võ Văn Cường, Phó giám đốc Sở Nông Nghiệp Quảng Nam cho biết: "Tôi nằm tại địa bàn 2 đêm để điều tra, mới biết cánh mua heo canh chừng rành chuyện nhà nào
mắc dịch còn hơn... thú y. Cứ ban ngày thì họ toả ra, đi tìm nhà nào có heo dịch là nhào vô mua liền. Chủ nhà thay
vì phải đem chôn, bán được tí tiền, gỡ được đồng nào hay đồng nấy, nên hầu như chủ nhà nào cũng gật ngay. Ngã giá xong, chủ nhà cứ làm như sắp đem chôn đàn heo bệnh của mình đến nơi, nhưng chờ đêm xuống thì đón đám lái heo đến hành sự".
Ông Cường cũng xác nhận:
"Tôi đã kiểm tra, đình chỉ 1 trong 2 tụ điểm tiêu thụ heo chết ở Hương An, nhưng họ lại... dời tụ điểm khuất sâu vào trong, lại đi hàng đêm khuya, không sao kiểm soát cho xuể. Thịt heo dịch chủ yếu đưa đi tiêu thụ để làm ruốc, nem chả... ở những nơi nổi tiếng về món này là Bình Ðịnh, Thừa Thiên Huế, thành phố Ðà Nẵng...".
Tất nhiên bọn lái heo
không dừng lại ở Ðà Nẵng mà còn đi xa hơn nhiều. Các quan thú y ở địa phương nào mắc bệnh bị phát giác mới nhẩy nhổm, còn các quan thú y ở các địa phương khác thì cứ tà tà "nó đã đến chỗ mình đâu mà sợ". Có chỉ thị thì cũng như không, bởi từ muôn đời nay "chỉ thị túi áo, thông báo túi quần" đã thành
thói quen
rồi. Cứ thế mà làm.
Các
quan Quản lý thị trường thì nhởn nhơ với những cái cửa hàng đã đóng "thuế túi", tức là loại thuế thường xuyên của các cửa hàng buôn bán từ nhỏ đến lớn, từ anh ngồi bán hàng rong ở vỉa hè đấn bà chủ nhà hàng ăn bình dân hay sang trọng cũng đều phải nộp loại thuế túi này mới yên. Người bán hàng thịt heo,thịt bò, gà vịt có thể không bị thuế nhà nước nhưng không thể bước qua loại thuế rơi vào túi của các quan nhỏ ở các địa phương này. Ðừng hỏi vì sao xe cứ để trên vỉa hè vô tư, hàng quán bình thản xếp ghế đầy lề đường, cũng đừng hỏi vì sao cửa hàng nhỏ bị đóng thuế nhiều hơn cửa hàng lớn; đừng hỏi vì sao hàng bán tịt tươi thì bị phạt, hàng
bán thịt bệnh không bị phạt. Cũng đừng hỏi vì sao gia đình cán bộ được miễn thuế, dân thì tận thu! Như trường hợp bà Nguyễn Thị Thới vợ ngài Chi cục trưởng Chi cục Thuế TP Mỹ Tho trốn thuế bị dân tố cáo mà vấn tỉnh bơ. Sở thuế còn cho rằng bà không có tội.
Không có chữ "vì sao" với những anh có
quyền. Chỉ có chữ "vì tao" mà thôi.
Người dân xã Bình Ðào vớt heo chết thả đầy trên sông Trường Giang
mang lên chôn.
Heo chết ở những vùng có dịch bệnh đang tập trung để mang đi bán ở các địa phương khác. (Ảnh chụp tại Hà Lam, Thăng Bình)
Già trẻ lớn bé đều chịu hàng trăm thứ thuế
Nhân nói đến chuyện thuế má, xin
nói ngay rằng không chỉ những ông nhà buôn lớn ở những thành phố mới bị đánh quá nhiều thứ thuế vô lý như các "đại gia đã bức xúc" trong những buổi được hội kiến với các quan chức thuế vụ. Người dân quê cũng chịu nhiều thứ thuế đến phát khùng.
Xin lấy một thí dụ gần gụi và cụ thể nhất: Xã Việt Xuyên
thuộc huyện Thạch Hà (Hà Tĩnh) chì có gần 3.500 người (ở đây còn gọi la nhân khẩu hay gọi tắt là có 3.500 khẩu để chĩ rõ có bao nhiêu cái miệng ăn, miệng nói để cai trị cho dễ). Mọi người từ 60 tuổi trở xuống cho đến các cháu mới lọt lòng mẹ đều phải nộp cả chục khoản lệ phí do địa phương đặt ra.
Ðiều này khiến những người lực điền ở đây dù tất bật quanh năm suốt tháng vẫn lâm cảnh nợ nần và nghèo đói... Nỗi bất bình của người dân cứ trải từ năm này qua năm khác.
- Già, trẻ đều phải nộp phí
Ông Ðậu Ngọc Chiêm,
sinh năm 1932 và vợ là bà Lê Thị Lục sinh năm 1938 trú tại xóm 6, hiện gia đình có 7 người. Ông Chiêm và bà Lục đều là viên
chức hưu trí đã ngoài 70 tuổi.
Nhà có 3 lao động gồm: Ðậu Ðức Phương (SN 1975), có vợ là Nguyễn Thị Nguyệt và một người con trai khác là Ðậu Ngọc Hùng
(SN 1977).
Hai cháu nhỏ song sinh (con của Phương
và Nguyệt) từ tháng 5 năm 2006 là Ðậu Ngọc Hiếu và Ðậu Thị Thảo tính đến nay đã hơn 1 tuổi. Cuốn sổ ghi các khoản phí của gia đình này được thu gần như thường xuyên là 13 mục.
Kể cả hai cháu nhỏ ấy cũng phải gánh
vác phần đóng góp vào quỹ địa phương. Ông Chiêm cho biết: "Từ trước tới nay mọi khoản thu chi đều đi vào sự im lặng, giờ đây chúng tôi không thể chấp nhận mãi đành phải nói
ra".
Cũng bất bình về những khoản lệ phí này,
bà Vừng từng là giáo viên dạy cấp II đã phản ứng khá gay gắt: "Lệ phí chi mà cứ thu luôn như thế. Nếu cần tiền thì cứ nói xin chúng tôi sẽ cho chứ đừng bắt chúng tôi phải nộp những khoản phí nực cười như vậy".
- Những khoản nợ trời ơi, đất hỡi
Gia đình anh Ðậu Xuân
Hoà (1964) và vợ là Lê Thị Hiền (SN1967) cũng là dân xóm 6 có hoàn cảnh rất khó khăn, đang phải nuôi 3 đứa con, đứa lớn 16 tuổi, đứa nhỏ nhất lên 10 đang là học sinh.
Nguồn sống của cả nhà nhờ vào 7
sào ruộng mỗi năm thu hoạch hai vụ được khoảng 1,5 tấn thóc. Nên năm nào được mùa mới đủ ăn, nhà lại chẳng có nghề phụ gì làm ra tiền.
Năm 2006, gia đình này
phải gánh 15 khoản chi phí đóng góp với tổng số tiền là 1.947.000 đồng. Nhà bán cả heo lẫn gà nuôi trong 1 năm chỉ lo đủ 1/3 khoản lệ phí, nay còn nợ cũ 1.447.000 đồng.
Khoản nợ về phí năm 2006 chưa trả xong thì
mức thu phí năm 2007 được của các cán bộ ghi vào sổ là 2.072.400 đồng. Chị Hiền nói chua chát: "Ðã lâu rồi bữa cơm gia đình chúng
tôi không biết đến miếng thịt là gì, heo gà nuôi được con nào
là lo bán để lấy tiền nộp thuế, nộp phí... Nếu không thì nợ nần chồng chất, lâu ngày không biết nhìn vào đâu."
15 khoản phí, lệ phí phải nộp là gì
Ông Phan Văn Hợi, Chủ tịch UBND
xã Việt Xuyên cho biết: Hiện tại xã đang thu 10 khoản theo quy định chung:
Thuế nhà đất, Quỹ An ninh quốc phòng, Quỹ đền ơn đáp nghĩa, Quỹ chăm sóc và bảo vệ trẻ em, Quỹ khuyến học, Quỹ giúp đỡ người nghèo, Quỹ hành chính sự nghiệp, Quỹ phục vụ sản xuất, Quỹ xây dựng cơ sở hạ tầng, Quỹ lao động công ích (chỉ thu 2006 về trước).
Và xã thu thêm 3 loại phí:
Phí xây dựng đường nhựa, Phí xây dựng đường điện, Phí xây dựng trường cao tầng.
Các khoản tiền đóng góp
phân bổ theo đầu người từ tuổi 60 trở xuống để xây dựng đường điện, đường giao thông và trường cao tầng là có
thật.
Những năm qua dân
chưa thanh toán được nên nhiều gia đình còn nợ đến tiền triệu. Dân è cổ đóng thuế cho nhà nước chưa đủ, làng xã cứ "tự do dân chủ" đặt ra những loại lệ phí trời ơi đất hỡi, trong khi các quan thì ăn chơi thoải mái,
con quan uống mỗi chai rượu hơn một triệu đồng. Tiền thuế chảy đi đâu? Lệ phí xuôi theo dòng nước trong nào? Hỏi trời!
72 loại phí và 42 loại lệ phí
Chưa hết, nếu nhìn
vào những khoản thuế và lệ phí của tỉnh An Giang còn giật mính kinh hãi hơn. Tại kỳ họp Hội đồng nhân dân tỉnh An Giang (từ ngày 11 đến 13-7), phản ánh ý kiến của người dân, tỏ ra quá phẫn nộ về các khoản phí, lệ phí và các khoản đóng góp của nông dân. Lú đó sở Tài chính mới nhẹ nhàng giải trình rằng các khoản phí, lệ phí do Trung Ương qui định gồm 72 loại phí và 42 loại lệ phí. Cộng lại có 114 loại phí, cứ gọi chung là thuế, là thứ tiền người dân phải nộp cho nhà nước.
Ối chao, từ thượng cổ tới bây giờ, đọc bao nhiêu báo, biết bao nhiêu tin trên thế giới mà tôi
chưa thấy ở đâu có nhiều loại phí kinh khủng đến như thế.
Vậy mà các ngài trong cái gọi là Hội đồng nhân dân muốn bớt đi vài loại cho người dân thì ông Tài chánh lại nhỏ nhẹ giải trình rằng vì là lệ phí do trung ương quy định nên phải xin phép trung ương. Mà Trung Ương thì có đến vái ba chục cái Bộ, cái Phủ, cái cơ quan chức năng nên phải đi xin phép từng ông thì có mà thế kỷ sau mới dân mới bót được vài thứ "phí". Cứ gọi là bớt đi 14 thứ cũng còn
tròn 100 thứ phí người dân phải chịu cho các quan "phí".
Bạn đọc nào thấy ở đâu có nhiều loại phí hơn ở An Giang
xin vui lòng cho biết. Trong khi chờ đợi quý vị tra tự điển về thuế, xin tường trình tiếp vế Asian Cup.
Ngôi nhà tuềnh toàng của chị Diện như thế này mà phải đóng tới 15 loại phí thì làm sao chịu nổi? Vậy mà vẫn thua An Giang, người dân đóng tới 72 loại thuế mới là khiếp vía.
Asian cup: Nhật bản -Australia: 4-3. VN - Iraq: 0-2.
- Australia thua vì thời tiết và vì cầu thủ đá thuê
- VN Thất bại được báo trước.
Tôi không dùng những từ ngữ hoa mỹ để nói về hai trận thua của đội tuyển Australia trước Nhật và trận thua của đội tuyển VN trước Iraq trong hai trận tranh tứ kết Asian
cup vào tối thứ bảy 21-7-20 007 vừa qua. Tôi nhìn thẳng vào những sự thật đã được phơi bày trên sân cỏ Mỹ Ðình - Hà Nội.
Nguyên nhân thất bại không phải chỉ vì sút luân lưu
(nenalty).
Chính xác là đội tuyển Australia thua vì thời tiết Hà Nội dù đỡ nóng hơn mọi ngày, nhưng vẫn là còn quá nóng đối với các cầu thủ Australia đang trong thời kỳ nghỉ hè dưỡng sức. Và nhìn vào cục diện trận đấu, với những "ngôi sao" của Australia đang là những trụ cột của những đội bóng đá ngoại hạng Anh, mới thấy hầu hết những cầu thủ "đá thuê" không thiết tha gì đến trận đấu "ở cái giải nhỏ" này dù nó mang danh dự quốc gia. Nhìn những bước chân họ chạy, những pha tranh bóng tay đôi với các đối thủ, tôi có cảm tưởng họ còn vướng bận đến sức khoẻ của mình cho Câu lạc bộ mà họ đang được trả một số lương khá cao ở bên kia khung trời. Sự thay thế M.Viduka chứng tỏ rõ điều này. Ngoại trừ Harry Kewell được tung vào sân quá muộn, anh đã tận tuỵ hơn để làm thay đổi trận đấu đang diễn ra bất lợi cho đội tuyển của mình.
Người hâm mộ VN từng chứng kiến tài năng của một số lớn cầu thủ Úc đá thuê ở giải ngoại hạng Anh
thì tại sân Mỹ Ðình, các ngôi sao trên chỉ còn là cái bóng. Và đội Úc bỗng chốc trở nên bình thường hơn bao giờ hết trước một Nhật Bản quyết tâm. May mắn là Úc còn có thủ thành Mark Schwarzer, có thể nói anh chính là cầu thủ chơi hay nhất trận đấu khi giúp đội nhà thoát khỏi nhiều bàn thua trông thấy.
Khán giả Úc trên sân Mỹ Ðình Hà
Nội tối 21-7.
Ðội Nhật quyết tâm trả món nợ ở World cup
Thua Úc
trong trận ở World Cup, lần này duyên nợ khiến họ lại gặp nhau trong một trận đấu quan trọng ở châu Á. Nhật biết rõ nhược điểm của Úc về thời tiết và qua hai trận đấu trước đó nên thế đôi công được tạo dựng ngay từ đầu khiến cho không khí trận đấu sôi nổi hẳn lên. Dù chiếm được lợi thế cầm bóng nhiều hơn nhưng tuyển Úc không tạo được cơ hội nguy hiểm nào trong suốt cả hiệp một. Ngược lại, những pha xuống biên nhanh đầy nguy hiểm của đội bóng xứ phù tang đã khiến cho hàng phòng ngự Úc trở nên vất vả hơn.
Trận đấu càng sôi nổi hơn trong hiệp 2 khi Nhật Bản tỏ ra quyết thắng và muốn kết thúc trận đấu trong 90 phút chính thức.
Ðang thi đấu ở thế trên
chân, những tưởng bàn thắng sớm muộn gì cũng sẽ đến với các cầu thủ Nhật Bản thì họ lại bị "phản đòn". Trong một pha dàn xếp đá phạt góc ở phút thứ 70, đường chuyền xà có chủ đích của Keweel đã khiến bóng đi xuyên qua hàng loạt các cầu thủ để đến ngay chân của Aloisi. Không chút chần chừ, tiền đạo này dễ dàng đệm bóng ở cự ly gần để mở tỷ số trận đấu.
Bị đòn đau nhưng Nhật Bản không hề buông
xuôi và ngay ở pha tấn công đầu tiên sau một đường giao bóng, họ đã có được bàn gỡ hòa đẹp mắt. Sai lầm của một trung vệ áo vàng khi phá bóng không dứt khoát đã giúp
cho Takahara có cơ hội lập công. Pha chỉnh bóng đầy bình tĩnh và cú sút trái phá của chân sút này không những giúp
Nhật Bản quân bình tỷ số mà còn lấy lại tinh thần cho đội bóng xứ phù tang.
Một thẻ đỏ gây nghi ngờ
Kể từ phút 75, Nhật Bản còn được chơi với lợi thế hơn người khi Grella nhận thẻ đỏ rời sân sau một pha trọng tài cho rằng Grella cố tình đánh nguội khi thúc cùi chỏ đối với Takahara. Hầu hết bình luận viên ngay trong trận đấu đều cho rằng một thẻ đỏ như thế là quá nặng tay. Chỉ cần một thẻ vàng là đủ. Cộng thêm một vài đường bóng, trong khi khán giả cứ tưởng cầu thủ Nhật bị phạt thì té ra lại là cầu thủ Úc bị xử phạt. Có người cho rằng trọng tài có chút thiên vị hoặc "tay nghề"
còn yếu. Ðiều này hiện nay vẫn còn là một vấn nạn không có lời giải trong bóng đá. Và tôi cũng có cảm tưởng như thế. FIFA cũng chẳng làm gì để cải thiện tình hình.
Tuy nhiên, ưu thế về mặt nhận sự không
giúp các cầu thủ Nhật Bản chiếm lĩnh được hoàn toàn trận đấu khi tuyển Úc chơi phòng ngự cực kỳ hệ thống. 30 phút hiệp phụ trôi qua mà không có thêm bàn thắng nào khiến 2 đội phải bước vào loạt đá luân lưu may rủi. Cho dù ngay ở những giây cuối cùng của hiệp phụ thứ 2, Nhật đã có cơ hội đi tiếp nếu cú kết thúc từ cự ly gần của Nakamura không bị Mark Schwarzer bay người xuất sắc đẩy ra.
Trong 5 loạt đá cân
não, ngay hai trái đầu tiên, H.Kewell, L.Neill bên phía Úc đều bị thủ thành
Kawaguchi cản phá thành công trong khi bên phía Nhật Bản chỉ có mỗi
Takahara là đá hỏng. Nhật Bản đi tiếp vào bán kết một cách xứng đáng và họ tiếp tục ở lại Hà Nội để đón chờ đối thủ sắp tới.
Thế là Ðội tuyển Úc chia
tay với Asian cup sau những "ông lớn" tưởng là tràn trề hy vọng như Trung Quốc. Dù sao Úc cũng còn vào đến vòng tứ kết, còn Trung Quốc bị loại ngay ở vòng đầu. Hai "cái hy vọng của giải"
chỉ hơn nhau tí đỉnh.
Thủ môn Kawaguchi cản phá được hai cú sút của cầu thủ Úc, đưa Nhật vào bán kết.
Nỗi thất vọng đến ngẩn ngơ của cầu thủ Trung Quốc phải chia tay quá sớm với các cầu thủ láng giềng.
Tiếp bước xách va ly về nước là đội Việt Nam.
Cần phải công bằng mà nhận định trận thua Iraq của đội tuyển VN là "cái chết được báo trước". Hầu như khán giả VN ai cũng hiểu như thế, nhưng không muốn nói ra như thế. Một trận thua "xứng đáng" không có gì phải tiếc nuối. Vào được đến vòng tứ kết Asian cup là cái đích đến không ngờ của đội VN rồi. Nếu cái đích đã đến thì còn gì để mà ước mơ nữa đâu. Nếu có chỉ là "mơ mộng" cho vui cuộc đời. Ai cũng có quyền mơ mộng. Ngay
cả những nhà cầm quân,
những ký giả thể thao VN cũng phải nói trước rằng "chúng tôi chẳng còn gì để mất" và "đội tuyển Việt Nam chơi với một tinh thần thoải mái". Thua cũng vui. Ðến giờ này đã có thể khẳng định rằng hai màn trình diễn tưng bừng đầu giải (thắng UAE 2-0, hoà Qatra 1-1) chỉ là một sự thể hiện xuất thần của phong độ.
Nhưng đêm 21-7, sự xuất thần ấy không
còn. Và ngay cả sự nhiệt tình của 2.000 khán giả VN trên sân Thái Lan không đủ tạo nên sức mạnh trên
sân Rajamangala mênh mông. Và cũng vì vậy, các tuyển thủ Iraq quá "tự do" để phô diễn thân hình đồ sộ cùng kỹ thuật cá nhân hơn hẳn. Hãy xem những cuộc vờn bóng qua hai ba chiếc áo đỏ một cách
quá dễ dàng của những Hawar (11), Karrar (13), Younis (10), Nashat (5) là đủ thấy sự chênh lệch như thế nào.
Tuy nhiên, công bằng mà nói
cũng phải có lời khen cho các tuyển thủ VN khi trước một đối thủ như vậy, họ vẫn giữ vững được tinh thần. Và thương
họ khi lăn xả vào chân các câu thủ cao to, chấp nhận "nếm"
những cú đá, cú ngã lộn mòng mòng như bị tra tấn. Hai bàn thua đều xuất phát từ những cú đá phạt cố định. Ðầu tiên ở phút thứ 2, từ một quả phạt bên cánh trái, bóng được treo
vào và Younis đánh đầu hạ Dương Hồng Sơn. Bàn thua này có lỗi của các hậu vệ khi
không đeo người quyết liệt. Kế đến, bàn thua thứ hai vào phút 65 là màn thể hiện kỹ thuật sút phạt tuyệt hảo của Younis.
Bàn thua ấy, nói như ông Calisto, là "vô phương chống đỡ". Bởi Younis đã uốn bóng đi ngay trên đầu hàng rào. Bóng bay vào góc xa của thủ môn Hồng Sơn, cái
góc mà các thủ môn đành phó mặc cho số phận khi đối phó với những cú sút phạt trực tiếp ngay trước vạch 16,50m.
Không chỉ không để rối loạn đội hình khi thất bại, các tuyển thủ VN cũng tạo được vài cơ hội ngàn vàng nhưng tiếc là không tận dụng được. Trong đó, tình huống đáng tiếc nhất ở phút cuối hiệp một, pha phối hợp thật đẹp giữa Anh Ðức với Vũ Phong đã làm chao đảo hàng thủ đối phương. Nhưng đáng tiếc cú sút của Phong quá nhẹ, không đủ để làm nên chuyện. Thua 2-0 cũng đã là "may" rồi. Giấc mơ của đội tuyển VN chỉ đến đấy. Sức mạnh của đội tuyển VN chỉ đến đấy. Có chăng là một chút tiến bộ đáng ghi nhận mà thôi. Bài toán thể lực của cầu thủ VN còn là một vấn đề nan giải lâu dài. Phải có một sự đầu tư thích đáng, phải có thời gian cho những cầu thủ khác lớn lên trong một môi trường được huấn luyện chu đáo. Lúc đó hãy nên mơ tiếp những giấc mơ gần với sự thật hơn.
Trong thất bại này của đội VN, chỉ có một câu sau cùng nên nói là "sức người có hạn". Và ái ngại cho các cầu thủ VN hầu hết đều tập tễnh rời sân.
Thế là hết. Không
có xuống đường. Không có đêm không ngủ mừng chiến thắng. Các thành phố VN từ 10 giờ đêm 21-7 lại trở về với cái nhịp sống bình thường của nó. Khán giả và cầu thủ VN lại ngồi coi "người nước ngoài đá với người nước ngoài".
Trong khi đó, đêm 21-7,
tại Iraq, người dân quên hết chiến tranh. Ở khắp các thành phố lớn đều xuống đường ăn mừng chiến thắng. Nhiều người dân đã vẫy cờ, nhảy múa và hò reo trên các đường phố. Thậm chí các
fan hâm mộ còn trèo cả lên xe bọc thép của quân đội để bày tỏ niềm vui mừng.
Tuy
nhiên, trong không khí vô cùng phấn khích, nhiều người dân và binh lính Iraq đã nổ súng chỉ thiên để ăn mừng sự kiện này. Ít nhất 3 người đã thiệt mạng và 50 người khác bị thương do trúng đạn lạc.
Sau ba lần liên tiếp phải dừng bước ở vòng tứ kết, đây là lần đầu tiên, đội tuyển Iraq lọt vào bán kết Asian Cup. Ðây là một thành tích rất đáng tự hào trong bối cảnh đất nước Iraq vẫn đang trải qua chiến tranh với xung đột bạo lực xảy ra hàng ngày.
Cầu thủ Việt Nam vào đến tứ kết cũng là may lắm rồi, nhưng thua cũng ngồi... nhâm nhi nỗi buồn.
Hàng ngàn xe máy và xe hơi đã đổ xuống đường phố tại thành phố Basra (Iraq) ăn mừng chiến thắng trước tuyển VN.
Kết quả hai trận tứ kết tiếp theo
vào tối 22-7
Tối 22-7 hai trận tứ kết còn lại đã diễn ra rất sôi động, đầy tính chuyên môn cao. Trận thứ nhất giữa Hàn Quốc và
Iran. Hai đội hoà trong hai hiệp chính và 2 hiệp phụ. Bước vào loạt đá luân lưu, Hàn Quốc thắng Iran, dành quyền vào bán kết gặp Iraq.
Trận thứ hai,
Saudi Arabia (Ả rập Sê út) gặp Uzbekistan. Ðây là một trận đấu hay nhất từ đầu giải đến nay. Saudi Arabia thắng Uzbekistan 2-1 và sẽ đấu trận bán kết với Nhật Bản.
Hai trận bán kết hứa hẹn sẽ rất hấp dẫn giữa những đội bóng hàng đầu châu Á diễn ra vào ngày 25-7.
=END=
6- Văn Học Nghệ Thuật
- Nén hương nhớ mẹ
Tâm Thanh
Mẹ tôi mất vào
ngày 17 tháng 7 Âm lịch, sau vía Vu Lan hai ngày, trong một đêm mưa gió ở một nơi rất xa mà
tôi không được nhìn mặt mẹ lần cuối cùng, cho nên mỗi lần đến mùa Báo hiếu tôi không khỏi nhớ mẹ đến tê tái người, những hoài niệm về người mẹ hiền yêu dấu lại trở về trong tâm thức và càng làm tôi ray rứt ân hận.
Cuộc đời của mẹ tôi
không lấy gì làm hạnh phúc từ thuở thiếu thời cho đến lúc nhắm mắt ra đi. Khi mẹ còn tại thế tôi chưa làm được một điều gì gọi là đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục, thế nhưng nước mắt bao giờ cũng chảy xuống, mẹ đã cho chị em chúng tôi tất cả những gì mẹ có thể và nhận lấy những điều cay đắng cho riêng mình.
Mẹ tôi sinh trưởng ở một vùng quê nghèo trong một gia đình trung
nông. Ông ngoại tôi làm hương trưởng lo việc làng. Khi mẹ lên tám thì bà ngoại tôi mất, đó là bất hạnh đầu tiên mà mẹ tôi phải hứng chịu, bởi tuy được mẹ kế thương yêu nhưng mất tình mẫu tử là mất một thứ tình thiêng liêng quý giá nhất trên đời khó có gì bù đắp được, hơn nữa lại ở tuổi ấu thơ. Là chị cả của một đàn em trai, gia đình không lấy gì làm khá giả, mẹ phải phụ giúp mẹ kế lo toan mọi công việc nhà từ sáng tinh mơ đến lúc chiều tối, nào là thái rau băm bèo nấu cám cho
lợn, nào là dọn dẹp nhà cửa, giặt giũ, chăm sóc các em...khi mẹ kế ra đồng cày cấy. Mẹ chịu thiệt thòi nhiều để các cậu của tôi được học hành tử tế.
Năm mười sáu tuổi mẹ trở thành
dâu trưởng của ông bà nội tôi, một cuộc hôn nhân mẹ không hề được quyền lựa chọn. Gia đình nội tôi rất giàu có, giàu nhất vùng vì bà nội tôi rất giỏi buôn bán. Bà đã từng vào Nam ra Bắc, buôn bán đủ mặt hàng mà chợ Sãi lúc bấy giờ lại nằm ở ngả ba sông đã trở thành cảnh trên bến dưới thuyền sầm uất nhộn nhịp nên nhà nội tôi của ăn của để không thiếu, vàng chất từng lu. Mẹ được nội tôi chọn làm dâu trưởng bởi đức tính hiền lành và đảm đang, khi về nhà chồng đã quán xuyến việc nội trợ. Cha tôi lúc bấy giờ đang học tại Huế, cưới vợ xong cha lại vào Huế tiếp tục việc học và sau đó ở lại Huế làm việc. Việc hôn nhân đối với cha tôi chỉ như một bổn phận, cha không yêu mẹ vì cha theo tây học mà mẹ tôi chỉ là một cô gái quê mộc mạc chân chất, Huế lúc đó là nơi phồn hoa đô hội, có biết bao nhiêu bóng hồng để cha đeo đuổi, thêm một bất hạnh nữa đến với mẹ khi vừa tròn trăng.
Nhà nội tôi là một loại nhà phố cổ với hai dãy lầu trước và sau được nối với nhau bằng một cái lậm dài (dùng đựng lúa khi thu hoạch mùa màng) và một khu vườn trồng nhiều loại hoa kiểng có hòn non bộ rất đẹp do chính tay ông nội tôi tạo nên. Tầng trệt của lầu trước dùng làm nơi buôn bán, trên lầu thờ tự, lầu sau là
nơi sinh hoạt, nghỉ ngơi....Ở trong ngôi nhà rộng lớn đó công việc của một nàng dâu trưởng mới mười sáu tuổi thật quá nặng nề cho dù có kẻ ăn người ở phụ giúp. Từ sáng sớm mẹ phải dậy để lo bữa ăn sáng cho cả đại gia đình, dọn hàng cho bà nội bán rồi tất tả chợ búa, cơm nước...Những ngày mùa mẹ phải về tận các miền quê xa xôi để trông coi việc gặt hái, thu hoạch lúa rồi thuê xe chở về nhà, đấy là chưa kể những ngày giỗ chạp tết nhất...Mẹ làm việc quần quật suốt ngày để đổi lấy một tình yêu hờ hững của cha tôi, mãi đến mười năm sau mới có được đứa con đầu lòng. Nhưng mẹ hưởng niềm hạnh phúc làm mẹ chỉ được mấy tháng thì chị cả qua đời vì bệnh, bất hạnh lại đến trong cuộc đời của mẹ mà phải đến ba năm sau khi chị thứ hai của tôi chào đời mẹ mới nguôi ngoai. Cha tôi lúc bấy giờ đã chán
ngán cuộc sống thị thành đầy lọc lừa dối trá, đã trở về quê đi dạy học ở trường huyện. Cảm thấy có lỗi với vợ, cha hết lòng thương yêu chăm sóc mẹ để bù đắp lại những năm tháng mà mẹ tôi phải sống lạnh lùng. Chị thứ ba và hai anh tôi lần lượt ra đời, tôi là con út, một chút hạnh phúc
le lói đến với mẹ trong khoảng thời gian đó. Nhưng khi mẹ sinh tôi cũng là lúc chiến tranh khốc liệt, ông bà nội tôi lần lượt qua đời, gia đình tôi tản cư khắp nơi, đến khi trở về thì gia tài đã mất mát nhiều.
Mẹ kế nghiệp bà nội tôi tiếp tục buôn
bán, lúc này dân làng đã phiêu tán nhiều, cuộc chiến tranh Việt-Pháp lại bùng nổ, chợ Sãi không còn tấp nập như xưa, việc sinh nhai của gia đình tôi không còn được như trước. Thế nhưng tôi vẫn còn nhớ như in những ngày tháng êm đềm sống ở quê nhà, vẫn nhớ mãi tiếng mẹ ru ngọt ngào đằm thắm mỗi lần dỗ tôi vào giấc ngủ. Sáng sáng khi bừng mắt dậy tôi lại chạy ra cửa hàng nơi mẹ ngồi bán để vòi vĩnh một dĩa bánh ướt tôm chấy tuyệt ngon hay chén đậu hủ thơm phức còn
nóng hổi. Tôi vẫn nhớ những chuyến theo mẹ lên chợ tỉnh mua hàng, đến bãi cát bên bờ Thạch Hãn đôi chân nhỏ bé của tôi không tài nào nhấc nổi khi gió lên cuốn bay những đám cát tạt vào người, thế là tôi đòi mẹ một cuốc xe kéo để được ngồi vào cổ xe êm ái mà bác phu phải còng lưng khó nhọc mới kéo nổi qua quảng đường đầy cát gió này. Tôi nhớ mãi những chuyến đò dọc theo mẹ vào Huế lúc chỉ mới lên ba.
Tiếng nước róc rách bên mạn thuyền, tiếng sóng vỗ êm ái và làn gió thổi mơn man đã đưa
tôi vào giấc ngủ thần tiên, đến khi tôi choàng mở mắt thì mặt trời đã lên cao, thuyền đến Bao Vinh tự lúc nào tôi không biết. Mẹ tôi đã lên bờ mua sắm các vật dụng chài lưới cho dân biển, mấy thùng nước mắm, mấy thùng ruốc..., khi trở về mẹ mua cho tôi đủ thứ đồ ăn, cả mấy miếng chả lụa trắng hồng thơm ngon. Rồi mẹ lại cho tôi ngồi xe kéo lên phố mua các loại hàng tạp hoá khác, nào kim chỉ vải vóc, gương
lược, phấn nụ phấn hồng...nhiều vô kể. Cho đến trưa hàng đã chất đầy, thuyền chúng tôi lại xuôi về Cửa Thuận An ra biển để làm chuyến trở về trên sông nước. Chao ôi, những ngày tháng ấy tôi mới hạnh phúc làm sao nhưng lại càng không hiểu được sự vất vả khó nhọc nhường nào của mẹ khi vừa phải chăm sóc gia đình con cái vừa phải bôn ba khắp chốn để mưu cầu miếng ăn tấm áo cho chúng tôi.
Cuộc sống của gia đình tôi cứ lặng lờ trôi cho đến ngày tai ương đổ ập xuống. Một đêm tối chúng tôi thức giấc bởi những tiếng súng, tiếng đại bác gầm trời, một quả moọc chê rơi vào vườn làm sập mái lầu sau. Cả nhà tôi hoảng loạn run rẩy khi có toán người xông vào nhà, chạy lên lầu bắn xối xả vào phủ Triệu Phong rồi dùng cửa sau nhà để tẩu thoát ra cánh đồng. Sáng hôm sau nhà tôi bị lục soát, bao nhiêu tiền của vàng bạc đều bị lấy sạch, cha tôi bị bắt vì bị tình nghi dính líu đến vụ tấn công đêm hôm đó. Mấy chị em chúng
tôi bơ phờ ngơ ngác, mẹ xanh xao tiều tụy chạy đôn chạy đáo để tìm cách cứu cha. Khi cha trở về nhà thì không còn được đi dạy nữa, cha
quyết định đưa gia đình chúng tôi vào Huế. Chị hai tôi được gả chồng vội vàng khi mới mười sáu tuổi.
Chúng tôi bắt đầu những ngày tháng bấp bênh bởi công việc của cha không ổn định, khi có khi không. Còn mẹ tôi không quen với hoàn cảnh mới, vốn liếng không
còn, lại chất phác thật thà nên đành xoay xở sang nghề làm tương cà mắm muối để bỏ mối cho các quán chợ. Mắt mẹ đã thâm quầng vì thức khuya dậy sớm, tóc mẹ đã lốm đốm bạc dù chỉ mới trên bốn mươi, ít khi nào tôi thấy mẹ cười dù rằng tôi rất thích mẹ cười để được ngắm hàm răng đều đặn đen nhánh.
Những ngày mùa đông ở Huế thật lạnh lùng ướt át, khi tôi còn ngủ vùi trong tấm mền bông thì mẹ và chị ba tôi đã dậy từ rất sớm để lo bữa ăn sáng cho cả nhà. Bữa ăn thường là xôi đậu đen thật dẽo mềm ăn với muối mè thơm phức hoặc là cháu đậu huyết nóng ăn với cá bống kho khô ngon tuyệt vời. Mấy anh em
tôi vừa thổi vừa xì xụp ăn bên bếp lửa hồng ấm áp, mẹ âu yếm nhìn
chúng tôi, mắt hoen đỏ, rồi lại giục giã chúng tôi nhanh chóng chuẩn bị đi học. Những ngày
hè, bạn bè rủ tôi đi picnic, khi thì lên lăng Tự Ðức khi thì
xuống cửa Thuận An, những đòn cơm bới được mẹ tôi nhồi rất dẽo rất khéo khi cơm vừa mới chín còn nóng hổi và những con tôm kho rim thơm lựng được các bạn tôi thưởng thức một cách khoái khẩu làm tôi rất tự hào về tài nấu nướng của mẹ. Những đêm thức khuya học bài thi, mẹ nấu cho tôi một tô cháu cá thu hoặc cá chẻm bỏ tiêu hành ngò thơm ngào ngạt. Tôi bệnh sốt mê man, hình ảnh đầu tiên khi tôi mở bừng mắt cũng vẫn là nét mặt đầy lo lắng của mẹ.
Tôi cố gắng học giỏi để làm vui lòng cha mẹ, tháng nào cũng có bảng danh dự mang về, không
những thế còn được học bổng của trường, cứ ba tháng một lần tôi lên văn phòng nhận tiền đem về cho mẹ và tôi lại được nhìn thấy nụ cười tươi của mẹ. Nhưng mẹ vẫn thường buồn nhiều hơn vui, nhất là khi cha tôi bị mất việc. Những món đồ cổ quý giá mà cha mẹ tôi đem từ quê vào cứ vơi dần khi người đàn ông buôn đồ cổ xuất hiện. Hồi đó tôi còn quá bé để hiểu những điều khổ tâm của mẹ nên vẫn hồn nhiên vô tư sống trong sự cưng chìu của cả nhà, nhất là của mẹ.
Ngày tháng cứ trôi đi, chị ba tôi đi lấy chồng, mẹ như bị hụt hẫng dù chưa bao giờ tôi thấy mẹ khóc.
Hình như mẹ luôn dấu nỗi đau trong lòng không muốn cho chúng tôi biết. Rồi đến lượt anh tư tôi bị bắt đi lính trong cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn sau nhiều lần trốn tránh không thoát. Tôi nhớ anh đã trốn lên trần nhà khi người ta vào khám xét, cha tôi tỏ ra bình thản nhưng mẹ thì mặt tái ngắt, tay
chân run rẩy, cuối cùng cả nhà đành ngậm ngùi tiễn anh lên đường. Hai năm sau đến lượt anh năm của tôi phải đi quân dịch, nhà vắng vẻ chỉ còn mình tôi ở với cha mẹ, tôi cứ nghe mẹ thở dài mỗi khi chiều xuống, mẹ nhớ và lo cho các anh của tôi. Chiến tranh
có bao giờ hứa hẹn ngày trở về của những người thân!!! Ðến khi chị ba sinh con, mẹ lại phải lặn lội vào tận Quảng Ngãi nuôi cháu ngoại mấy tháng trời, giao
cho tôi việc chăm sóc cha, những lúc đó tôi mong ngóng mẹ về như những ngày còn bé biết bao!
Tôi ra trường và lấy chồng, buổi chiều ở nhà chồng nghe
tiếng chuông chùa ngân nga tôi đã oà khóc như mưa vì nhớ nhà, cha
mẹ tôi lúc này cô quạnh quá! Cuối đông năm ấy anh tư tôi mất tích trong một cuộc giao
tranh ở miền núi biên giới, nghe tin tôi vội chạy về nhà và thấy cha mẹ tôi ngồi bất động, nét mặt vô cảm, tôi không thấy một giọt nước mắt nào của mẹ nhưng tôi biết lòng mẹ đau xót vô cùng. Hết ngày này sang ngày khác, hết năm này sang năm khác mẹ cứ chờ đợi và hy vọng một ngày nào đó anh tôi sẽ trở về, cho đến năm 1973 khi Hiệp định Paris được ký kết bóng hình anh tôi vẫn mịt mù. Mòn mõi trong đợi chơ, tinh thần mẹ đã suy sụp, tóc mẹ bạc trắng, thân xác hao gầy. Thế nhưng tôi chỉ nghe tiếng thở dài của mẹ mà không hề thấy mẹ khóc, có lẽ mẹ chỉ khóc thầm khi ở một mình. Anh tôi đã hy sinh mà không biết nắm xương
tàn đã vùi nơi đâu, không một tấm mộ bia, không một dòng Tổ quốc ghi công, không kịp nhìn mặt đứa con đầu lòng của mình. Niềm đau của mẹ biết nói mấy cho vừa!!!
Những lần tôi
sinh con, tuy ở xa nhưng thương con gái út, mẹ lại khăn gói vào chăm sóc. Mẹ dỗ tôi từng miếng ăn, giấc ngủ, nâng niu đứa cháu ngoại mới sinh để tôi được yên ổn nghỉ ngơi. Những câu hò ru em ngày xưa mẹ ru tôi ngủ bây giờ mẹ lại ru con
tôi, tôi ngập chìm trong tình thương bao la của mẹ mà không
hề nghĩ đến nỗi nhọc nhằn đắng cay của mẹ, tôi thật là một đứa con bất hiếu!
Chiến tranh đến hồi kết thúc, cuộc phong trần dâu bể lại bắt đầu, cha mẹ tôi mất đi đứa cháu nội - con của anh năm tôi - khi vượt biển vào Nam, tấm thân bé bỏng của cháu tôi chìm vào đại dương
mênh mông. Không phải cháu tôi chết đuối mà là chết khát, trên tàu đã hết nguồn nước ngọt dự trữ khi bị cắt rời khỏi tàu lớn mà cháu tôi lại không đủ sức chịu đựng. Cha mẹ tôi thương cháu không nở rời nhưng sinh mạng của hàng trăm con người đang thoi thóp trên tàu còn quý hơn xác chết của một đứa bé lên hai...và thế là cha tôi đành gạt lệ thả cháu xuống biển khơi. Cảnh trên
tàu lúc đó chỉ còn là địa ngục trần gian, người ta giành dựt nhau từng hơi thở, từng miếng cơm, từng ngụm nước để sống còn, có người không chịu nổi nhảy xuống biển tự tử, lấy đâu ra điều nhân nghĩa? Sau cái chết bi đát của cháu tôi, mẹ trở nên lặng thinh, trí nhớ lẫn lộn.
Thương vợ chồng anh năm, cha mẹ tôi lại dắt díu
nhau trở về Huế, bán nốt hai chiếc ché ngọc và cái tủ chè cẩn xà cừ, những món đồ cổ quý giá cuối cùng may mà không bị người ta hôi
của, để đổi lấy hai lượng tám vàng định bụng đem vào cho anh chị làm vốn làm ăn. Trên chuyến tàu bão táp vào Nam năm đó, hai lượng vàng đã bị một kẻ móc túi vô lương tâm không nghĩ tình hai ông bà già khốn khổ lấy mất. Cha mẹ tôi tay
trắng lại hoàn trắng tay, anh chị tôi đành về một vùng quê hẻo lánh Nam bộ bán dạo kiếm sống. Còn căn nhà mà gia đình chúng tôi đã từng có những ngày đầm ấm bên nhau cũng đành bán nốt để, hởi ôi, chỉ được hai lượng vàng! Cha tôi vào Ðồng Nai mua một mảnh vườn nhỏ làm kế sinh nhai rồi giao cho anh rễ tôi cai quản cùng với vợ chồng đứa con đầu (chị hai và những đứa con khác vẫn còn ở Huế), số tiền còn lại cha mẹ tôi chia cho mỗi đứa con một ít mà không nghĩ đến bản thân mình.
Vợ chồng tôi lúc bấy giờ dạy học, đồng lương công nhân viên nhà nước không đủ nuôi bốn đứa con nheo nhóc, nghĩ đến cảnh tình
cha mẹ mà ứa nước mắt. Tôi chạy vạy khắp nơi xin cho cha mẹ tôi nhập hộ khẩu để được hưởng tiêu chuẩn lương thực của gia đình công nhân viên. Hộ khẩu thì người ta cho nhập nhưng cha mẹ tôi không được hưởng tiêu chuẩn lương thực với lý do tôi là con gái chứ không phải con
trai (???). Cha đành để mẹ ở lại với chúng tôi còn cha về Ðồng Nai, cha muốn giảm bớt gánh nặng kinh tế cho gia đình tôi.
Tôi thấy lòng không yên ổn nhưng biết làm sao trong hoàn cảnh mới khi mà
mỗi một công nhân viên nhà nước chỉ có mấy lạng thịt, mấy lạng đường mỗi tháng, mua gạo thì phải chầu chực ở cửa hàng lương thực từ một hai giờ sáng... Lại còn chồng tôi nữa, liệu anh ấy có suy nghĩ gì khi phải nuôi dưỡng cả cha vợ lẫn mẹ vợ (?)
Mẹ tôi lúc này đã già yếu lắm rồi, những bất hạnh tiếp nối dồn dập khiến mẹ quẩn trí. Mẹ cứ nghĩ ngợi về những ngày
xa xưa, không hiểu ý của cha nên hờn trách cha vô tình để mẹ ở một mình.
Những lúc nghe mẹ trách móc cha, tôi rất đau xót vì biết rằng mẹ tôi
không còn minh mẫn, lẫn lộn hiện tại với quá khứ, những nỗi đau chồng chất ấy đã giết dần giết mòn tinh thần của mẹ, ngày xưa có bao giờ mẹ trách móc cha, dù chỉ nửa lời. Tôi lại càng
xót xa hiểu rằng mẹ rất yêu cha, những ngày cuối đời mẹ muốn được ở bên cạnh cha. Không nở để mẹ đau khổ, tôi đành đưa mẹ về với cha mặc dù tôi biết cuộc sống của gia đình anh rễ tôi còn quá nhiều khó khăn, bữa đói bữa no vì chỉ mới bắt đầu việc canh tác.
...Như linh tính mách bảo, sau
khi chấm dứt việc chấm thi tôi vội vàng thu xếp việc nhà để về thăm cha mẹ, không ngờ đó là lần gặp mặt mẹ cuối cùng. Mẹ tôi bệnh nặng mà cha dấu không cho tôi biết, khi tôi về đến nơi thì mẹ đã quá hao gầy, hai mắt nhắm ghiền, miệng luôn mê sảng. Chỉ mới một năm mà mẹ đến nông nổi này ư? Tôi nắm tay mẹ nghẹn ngào:
- Mạ ơi, con về thăm mạ đây!
- Ai đó? Có phải cháu
Thuỷ đó không? Mẹ tôi thều thào hỏi, mắt vẫn nhắm ghiền, mẹ tưởng tôi là đứa cháu ngoại vẫn thường qua lại thăm viếng.
- Không, con là út đây, út của mạ đây!
Mẹ tôi vẫn không
nhận ra tiếng nói của tôi, hình như lúc bấy giờ các giác quan đã gần như tê liệt, thế nhưng tôi vẫn ảo giác mẹ tôi chỉ vì ăn uống kham khổ mà lâm bệnh thôi, nếu được điều trị và bồi bổ sẽ hồi phục.
Tôi ở lại chăm sóc mẹ được hơn một tuần, thấy mẹ có vẻ khá hơn, tôi trở về nhà bởi lúc này các con tôi còn nhỏ dại, mấy con lợn lại đang chờ tôi, việc học chính
trị-chuyên môn cũng sắp sửa. Thời buổi cũng lạ kỳ, người có thể nhịn đói được nhưng lợn thì không, mà tôi vẫn cứ đinh ninh
mẹ sẽ qua khỏi.
Tôi nhận được bức điện báo tin
mẹ tôi qua đời chỉ sau hai tháng khi đang ở trên lớp, lúc tôi về đến nơi thì mẹ tôi đã ra đi trước đó một tuần. Anh rể tôi đã đánh điện cho tôi quá trễ hay do bưu điện chuyển đến trễ tôi không rõ, chỉ ân hận là tôi không được nhìn mặt mẹ lần cuối, không được tiễn đưa mẹ đến nơi an nghỉ nghìn thu. Thời cuộc hay số phận đã biến tôi thành đứa con bất hiếu? Tôi rất đau lòng, giá tôi biết trước nông nổi này thì cho dù mấy con heo ở nhà có bị bỏ đói thì tôi vẫn quyết ở lại với mẹ cho đến ngày mẹ ra đi. Mẹ được chôn cất trong một lô rừng cao su, thật cô đơn!
Hơn mười năm sau chị em chúng
tôi mới có điều kiện đưa hài cốt mẹ về Huế để an táng bên cạnh cha. Cha tôi mất sau mẹ bốn năm, những năm tháng cuối đời cha đã làm nhiều bài thơ tiếc thương mẹ.
Tôi thường đứng hàng giờ lặng ngắm tấm ảnh thờ của mẹ. Ðó là tấm ảnh chụp cách mười tám năm trước ngày mẹ mất được phóng to, mẹ không có tấm ảnh nào mới hơn. Tấm ảnh này do chính tay tôi chụp vào ngày anh tư tôi cưới vợ bằng chiếc máy ảnh mà anh tặng tôi nhân kỳ nghỉ phép đầu tiên. Trong ảnh mẹ cười rất tươi, tràn đầy hạnh phúc, gương mặt dịu dàng, phúc hậu. Tôi tự hỏi: vì sao mẹ tôi hiền hậu, đảm đang, luôn dạy chị em tôi những điều nhân nghĩa kính trên nhường dưới, thương yêu mọi người kể cả loài vật; luôn chịu thiệt thòi để đem hạnh phúc cho người khác lại phải chịu nhiều nghiệp chướng quá nặng nề? Tôi không nghĩ mẹ tôi trả nghiệp cho kiếp trước, kiếp trước chắc chắn mẹ tôi cũng là một người phụ nữ nhân hậu hết lòng vì chồng con. Tôi lại nghĩ đến các vị bồ tát đã xả thân cứu độ chúng sinh, phải chăng mẹ tôi là một vị bồ tát, chí ít đối với chị em chúng tôi, khi chúng tôi cần mẹ, mẹ đều có mặt (?). Thế mà tôi chưa đền đáp được công ơn vô vàn to lớn đó, giờ đây tiếc nuối ân hận thì mẹ đã quá xa vời...
Những lần về Huế tôi
thích lên mộ cha mẹ một mình vào buổi chiều tà khi mặt trời vừa khuất sau chân trời. Hai ngôi mộ nằm song song ở phía trên cao của khu vực nghĩa địa Ngự Bình dưới bóng rừng thông rất thoáng mát. Cả một vùng trời đất như giao hoà với nhau trong một không gian thật tĩnh lặng bình an, một thế giới rất riêng của những linh hồn hiền hoà nhân ái. Tôi có cảm giác rất gần gủi thân thương,
rất thanh thản, hình như cha mẹ tôi đang bên cạnh tôi, vỗ về tôi, tha thứ những lỗi lầm của tôi trong quá khứ. Tôi chợt hiểu ra lẽ vô thường hữu hạn của đời người và sự vĩnh cửu bất biến của vũ trụ, của thế giới tâm linh. Tôi hiểu mẹ tôi vẫn sống mãi trong tâm thức của tôi, trong hình hài
của tôi và luôn bên cạnh tôi những lúc
tôi hạnh phúc cũng như khi tôi qụy ngã để nâng đỡ bước đi của tôi trong cuộc đời.
=END=
**********************************