VIETNAM
NEWS NETWORK (VNN)
P.O. Box
661162
Sacramento
,
CA
95866
Phone & Fax: 916-480-2724
Email: vnn@vnn-news.com
Website: www.vnn-news.com
**********************************
Bài Vở Hàng Ngày
Ngày 20 Tháng 08 Năm 2007
**********************************
1- Bình Luận Việt Nam
- Nhân Quyền, Ưu Tiên Hàng Ðầu Của Chính Sách Mỹ Tại Việt
Nam
Lý Ðại Nguyên
2- Diễn Ðàn Hải Ngoại
- Nhạc
hội trình diễn ca sĩ từ Việt Nam: Chống hay không chống?
Cao Chánh Cương
3- Diễn Ðàn Quốc Nội
- Phong Trào Xanh Việt Nam - Green Vietnam Movement - Chủ Ðộng Ứng
Phó Với Thảm
Trạng Ô Nhiễm
Môi Sinh Ở Việt
Nam
Thuỷ-Triều
4- Tin Tức Quốc Nội
- Dân oan Lê Thị Nguyệt tường
thuật vụ công an Quận 6, Sài Gòn và công an Tiền Giang bắt người
vô tội trái phép, trái pháp luật.
Nhóm Ðấu Tranh Vì Công Lý
5. Tin Tức Quốc Nội
- Hình ảnh ngoài phiên tòa phúc thẩm xử các đảng
viên đảng Dân Chủ Nhân Dân
Nhóm
Phóng Viên Ðấu Tranh Vì Công Lý
6- Tham Khảo
- Quốc Kỳ Việt Nam: Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ
Trương Thúy Hậu
7- Ðời Sống Quanh Ta
- Thế giới
kỳ lạ của những
người ăn
khi ngủ
Kathleen Mc Auliffe (Discover) - Minh
Trang phỏng dịch
8- Tạp Ghi Văn Nghệ
- Tản mạn
chuyện văn
nghệ quê nhà
Hồ
Nam
9- Gương Xưa Tích Cũ
- Chờ Chi Không Dzớt
Mõ Sàigòn
**********************************
1- Bình Luận Việt Nam
- Nhân Quyền, Ưu Tiên Hàng Ðầu Của Chính Sách Mỹ Tại Việt Nam
Lý Ðại Nguyên
(VNN)
Ông Michael Marine, Ðại Sứ Hoa Kỳ mãn nhiệm tại Việt Nam, ngày 09/08/07 ở Hà Nội đã than rằng, tình trạng thiếu tiến bộ về nhân quyền ở ViệtNam là sự thất vọng lớn nhất trong thời gian 3 năm ông phục vụ tại đây. Ông cảm thấy thất vọng trước sự kiện là Việt Nam vẫn duy trì một môi trường trong đó những cuộc thảo luận về chính trị bị bóp nghẹt và những người bày tỏ quan điểm một cách ôn hòa bị bắt bớ và cầm tù. Ông nói: "Tôi thực sự mong ước là tôi có thể nói rằng tình hình đang cải thiện, nhưng tôi không thể nói như vậy. Ðây có lẽ là sự thất vọng lớn nhất. Ðó là chúng tôi đã không thể nới rộng không gian cho công cuộc đối thoại chính trị ở Việt Nam. Nhân quyền là một đề tài phức tạp, và nếu đề cập tới tự do tôn giáo thì tôi có những điều tích cực để thưa với quý vị. Tuy nhiên, nếu đề cập tới vấn đề người dân có thể thực hiện các hoạt động chính trị, thì tôi không thể có nhận định tích cực như vậy, và thật ra tôi cảm thấy thất vọng". Ông nhấn mạnh: "Ở đây có những luật lệ cho phép nhà chức trách áp dụng những biện pháp chống lại những người dân bày tỏ quan điểm của mình, chống lại những người tổ chức bằng cách này hay cách khác và kêu
gọi cho sự thay đổi về chính trị. Những hoạt động đó là những quyền cơ bản của con người và tôi tin tưởng mạnh mẽ rằng đó là những quyền phổ quát của nhân loại mà người dân Việt Nam nên được hưởng".
Ông Michael Marine là vị đại sứ thứ 3 của Hoa Kỳ tại Việt Nam, người được kể như là một đại sứ đã đi gần khắp các tỉnh thành Việt Nam. Trực tiếp gặp và trao đổi ý kiến với các lãnh tụ tôn giáo bất phục chế độ, cũng như những người đối lập với nhà cầm quyền Việt Cộng. Trước khi rời nhiệm sở ông còn gặp và từ giã bác sĩ Nguyễn Ðan Quế và bs. Phạm Hồng Sơn là 2 chính trị gia đối lập với nhà nước. Ðiều đó cho thấy ông thật sự còn quan tâm về trách nhiệm chính trị mà mình chưa hoàn tất, và đây cũng là sự gởi gấm lại cho vị đại sứ kế nhiệm. Riêng về lãnh vực tôn giáo ông cho là đã có điều tích cực, thì đó chỉ là phần viện dẫn của giới chức Hoa Kỳ, trong đó có ông, để vào cuối năm 2006, Hoa Kỳ rút tên Việt Nam ra khỏi danh sách các nước cần quan tâm đặc biệt - CPC - dọn đường cho tổng thống Mỹ, George W. Bush chính thức viếng Việt Nam vào tháng 11/2006, nhân dự hội nghị APEC, và dành cho Việt Nam quy chế Mậu Dịch Bình Thường Vĩnh Viễn - PNTR - giúp Việt Nam trở thành hội viên chính thức của Tổ Chức Thương Mại Thế Giới - WTO - vào tháng giêng 2007. Ðể rồi bị Việt Cộng lật lọng, xuống tay đàn áp, bắt bỏ tù những người, những tổ chức bất đồng chính kiến với cộng đảng Việt Nam. Còn riêng đối với thực trạng tôn giáo
thì vẫn như cũ. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, các Hội Thánh Tin Lành Tại Gia vẫn chưa được sinh hoạt hợp pháp. Các giáo hội của những tôn giáo đã được nhà nước nhìn nhận thì vẫn phải nằm trong hệ thống tổ chức Mặt Trận Tổ Quốc của cộng đảng, với quy chế "xin cho". Vậy làm sao có thể gọi Việt Nam đã có điểm tích cực về tự do tôn giáo cho được.
Nhân vật được bổ nhiệm vào chức tân Ðại Sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, ông Michael Michalak sẽ tớí Hànội nhậm chức ngày 17/08/2007. Khi trả lời cuộc phỏng vấn của đài BBC về người tiền nhiệm là cựu đại sứ Michael Marine đã từng bị một số người chỉ trích là quá mềm mỏng với Việt Nam, nhất là trong lãnh vực nhân quyền và tự do tôn giáo. Ông nghĩ thế nào về chỉ trích này, và liệu bản thân ông có chủ trương một cách cứng rắn hơn hay không? Ông Michalak trả lời: "Ông Michael Marine đã từng bày tỏ sự thất vọng về thành tích nhân quyền của Việt Nam với tôi, và yêu cầu tôi nỗ lực về chủ đề này trong nhiệm kỳ của tôi. Trong phiên điều trần của tôi tại Thượng Viện, tôi đã được khuyến nghị phải tích cực trong lãnh vực này, và tôi cam kết làm như vậy". Ðã rõ, trách nhiệm của Tân Ðại Sứ Mỹ tại Hà Nội, không những phải tiếp tục công việc chưa xong của người tiền nhiệm, mà còn phải theo đúng khuyến nghị của Thượng Viện Mỹ là nơi chuẩn thuận chính sách ngoại giao của nước Mỹ.
Trong cuộc gặp mặt với cộng đồng người Việt vùng Hoa Thịnh Ðốn, ngày 10/08/07, trước khi lên đường nhậm chức, Tân Ðại Sứ Mỹ, Michael Michalak đã nhắc đi, nhắc lại nhiều lần: Hai trọng điểm trong sự liên hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam là Nhân Quyền và Kinh Tế, thêm nữa là vấn đề Giáo Dục. Ông hy vọng, chắc chắn khi chấm dứt nhiệm kỳ của ông, ông có thể nói vấn đề nhân quyền ở Việt Nam đã tiến bộ rất nhiều. Ông sẽ nỗ lực cho vấn đề tự do tôn giáo, đặc biệt vấn đề tự do lập hội, tự do báo chí...Ông hứa cố gắng thực hiện những điều đó. Tất cả đều muốn ông thành công, không riêng gì
người dân Việt Nam trong và ngoài nước, mà ngay cả chính phủ, quốc hội và toàn thể dân chúng Mỹ cũng mong thế. Vì mọi người đều hiểu: Kinh tế không thể phát triển dưới chế độ độc đảng, độc tài, vi phạm nhân quyền, ngược đãi tôn giáo, khống chế báo chí, đàn áp chính trị. Chính vì quyết duy trì chế độ độc đảng toàn trị, nên Việt Cộng chỉ muốn "làm đầy tớ" cho Mỹ, sẵng sàng nhường cho Mỹ mọi đặc quyền kinh tế, và chấp nhận hệ thống giáo dục của Mỹ một cách dễ dàng. Còn vấn đề tôn trọng nhân quyền, như tự do tôn giáo, tự do lập hội, tự do ngôn luận, nhằm nới rộng và bảo vệ không gian dành cho việc bày tỏ chính kiến của mỗi công dân, để có thể vực dậy tiềm năng phát triển của toàn dân tộc thì Việt Cộng sợ mất quyền, nên đã liều mạng chống lại đến cùng.
Chính vì vậy, mà hết Nguyễn Minh Triết, chủ tịch nước, sẽ tới Nguyễn Tấn Dũng, thủ tướng Việt Cộng cứ vác cái mặt rất dễ ghét, hắc ám, vi phạm nhân quyền, ngược đãi tôn giáo, khống chế báo giới, đàn áp đối lập, sang cầu cạnh các nhà lãnh đạo Mỹ để xin ân huệ và chọc giận đồng bào người Việt Hải Ngoại. Trong khi đó ở nhà, chúng tăng cường hệ thống khủng bố trấn áp dân chúng bằng chế độ Công An Trị, trao rộng quyền, cả thường trực chính phủ, tòa án, cảnh sát, báo giới vào tay nhóm công an Nghệ-Tĩnh đầu óc thiển cận, sẵn sàng nhận lệnh của quan thầy Trung cộng, để mặc sức thao túng chính trị. Như vậy liệu ông Tân Ðại Sứ Mỹ, Michael Michalak có thực hiện nổi chính sách nhân quyền ở Việt Nam, hay rồi cũng như người tiền nhiệm Michael Marine ôm mối thất vọng ra về? Nếu xét về chiến lược toàn cầu của Mỹ ở Việt Nam thì có thể nói, những tháng còn lại cùa nhiệm kỳ tổng thống, ông Bush thực tâm muốn đẩy vai trò người Việt tại Mỹ lên đúng tầm đối trọng với Việt Cộng, đòi hỏi Ðại Sứ Mỹ phải đi thẳng với dân chúng Việt Nam, nhằm Dân Chủ Hóa chế độ chính trị tại Việt Nam. Lưỡng Viện Quốc Hội Mỹ cũng đồng thuận, nên đạo luật Nhân Quyền Việt Nam 2007, HR 3069 hy vọng có thể ra đời, nhằm tạo điều kiện cho đại sứ Michalak thực hiện được ưu tiên hàng đầu của ông là Nhân Quyền cho Việt Nam, đúng với chủ trương của tổng thống Bush và khuyến nghị của Quốc Hội Hoa Kỳ, cũng là nhu cầu của toàn dân Việt Nam và trông đợi của dư luận thế giới.
=END=
2- Diễn Ðàn Hải Ngoại
- Nhạc hội trình diễn ca sĩ từ Việt Nam: Chống hay không chống?
Cao Chánh Cương
Các đại nhạc hội tổ chức tại hải ngọai do các ca-sĩ từ Việt Nam trình diễn đã tạo nhiều tranh luận trong cộng đồng người Việt hải ngoại. Một số người cho rằng các ca sĩ nầy ra hải ngoại hát chỉ để kiếm tiền vì nghèo khó ở Việt Nam, họ không phải là VC hay người của chính phủ Hà Nội gởi ra nước ngoài. Vả lại chúng ta có bằng chứng gì các ca sĩ từ Việt Nam nầy là cán bộ giao lưu văn hóa của CSVN không? Tại sao chúng ta chống họ? Trình diễn ca nhạc là một nghệ thuật thể hiện văn hóa dân tộc phục vụ cộng đồng người Việt Nam, lý do nào chúng ta lại ngăn cấm, chống đối họ? v.v... Bài nầy hy vọng sẽ được giải bày thắc mắc đã nêu ra.
Ca sĩ từ Việt Nam có phải là Việt Cộng không?
Sự thật không ai cho rằng các ca sĩ từ Việt Nam trình diễn ở hải ngoại là Việt cộng, nhưng cũng không ai dám quả quyết họ là những người không bị chính phủ Hà Nội lợi dụng hay có thể thi hành sứ mệnh giao lưu văn hoá của CSVN, vì trong quá khứ họ đã làm?
Tuy nhiên, một sự kiện biết chắc là qua Nghị quyết 36 (Xin đọc thêm NQ-36 bên dưới), bộ chính trị trung ương đảng CSVN, trong đó có một điều khoản đã chỉ thị các cơ quan chính phủ và Ủy ban người Việt nước ngoài thi hành gởi các đoàn ca nhạc văn hóa nghệ thuật (Chương 3, điều 5 của NQ-36) từ Việt Nam ra hải ngoại gọi là để "phục vụ" cộng đồng nước ngoài, kể cả sự giúp đỡ (trợ gíá) phương tiện cho các đoàn văn nghệ nầy. Mục đích chủ yếu là dùng lời ca tiếng hát để ru ngủ và chiêu dụ cộng đồng người Việt hải ngoại về phía họ, trong mưu kế đại hoà giải dân tộc mà chúng ta biết rõ. Nói một cách khác, chính phủ Hà Nội khuyến khích bảo trợ cho các đoàn ca nhạc từ Việt Nam đi trình diễn nước ngoài, với chủ đích rõ rệt.
Phục vụ cho ai?
Ðến đây xin được nêu lên một nghi vấn về danh từ "phục vụ" người Việt nước ngoài. Thật ra, cộng đồng người Việt đáng được "phục vụ" hiện nay là tại Việt Nam, nhất là các thành thị thôn quê ở quốc nội, những người đang khao khát ước mơ được các đoàn ca nhạc với thành phần ca-sĩ thượng thặng như đã gởi ra nước ngoà i, không phải cộng đồng người Việt hải ngoại, vốn đang có nhiều nghệ sĩ tài danh hơn các ca-sĩ quốc nội. Vấn đề được đặt ra là tại sao chính phủ Hà Nội không phục vụ cho chính người dân trong nước, mà lại đi phục vụ cho cộng đồng người Việt tị nạn hải ngoại, là thành phần đang ngày đêm tích cực chống đối họ? Ðây là dấu hỏi được đặt ra để suy ngẫm? Từ những lý do nầy, chúng ta không quả quyết các ca-sĩ từ Việt Nam là cán bộ giao lưu văn hóa, nhưng cũng có quyền nghi ngờ sự sốt sắng trợ giúp các phái đoàn ca nhạc hùng hậu ra hải ngoại của chính phủ Hà Nội. Phải chăng đây là một thứ "phục vụ" dân tộc có chủ đích?
Có bằng chứng gì ca-sĩ từ Việt Nam là VC?
Ðây là thắc mắc thứ hai chúng ta thường nghe từ một số người trong cộng đồng. Trước hết chúng ta biết chính phủ Hà Nội không bao giờ ngây thơ ngu dại để lộ bằng chứng các ca-sĩ gởi ra nước ngoài để thi hành chính sách văn hóa vận của họ. Lý do đơn giản là khi đã có bằng chứng thì chắc chắn họ sẽ bị đào thải bởi cộng đồng người Việt tị nạn hải ngoại. Ca-sĩ Ái Vân là một bằng chứng điển hình. Bao nhiêu năm ca-sĩ Ái Vân là một trong những "thần tượng" của giới văn nghệ hải ngoại: hát hay, nhan sắc mặn mà, tài nghệ vẹn toàn.... rất được sự ái mộ của người yêu chuộng ca nhạc nghệ thuật. Nhưng sự thật Ái Vân là ai? Là một ca-sĩ nằm vùng được CSVN cài vào trong cộng đồng người Việt tị nạn CSVN. Khi đã bị lộ tẫy là cán bộ văn hóa vận của VC, ca-sĩ Ái Vân đã lập tức bị xóa tên, không những trong làng văn nghệ sĩ mà ngay cả cộng đồng người Việi tị nạn chúng ta. Tóm tắt, nếu quả thật một hay nhiều ca-sĩ từ Việt Nam ra hát ở hải ngọai là cán bộ văn hóa tuyên vận, thì chắc chắn họ không ngu dại để lộ tông tích cho chúng ta nhận biết. Người CSVN khôn ngoan hơn nhiều, thi hành một nghị quyết, chính sách đường lối như NQ-36 mà để tiết lộ cơ mưu cán bộ "nằm vùng" của họ để thất bại, thì chắc chắn họ sẽ không làm.
Nghệ sĩ nằm vùng trong quá khứ:
Trở về quá khư', không
ai ngờ Kim Cương - một nghệ sĩ được mọi người thuộc chế độ VNCH ngưỡng mộ - mà mãi đến năm 1979 mới biết Kim Cương là một cán bộ văn công với 17 tuổi đảng CSVN. Nhạc sĩ tài ba Trịnh Công Sơn được nuôi dưỡng trọng dụng trong suốt cuộc chiến quốc cộng tại Việt Nam, nhưng khi đến khi VC cưỡng chiếm miền nam VN vào ngày 30-4-1975 cũng chính tên VC nằm vùng Trịnh Công Sơn đã đến đài phát thanh kêu gọi các ca nghệ sĩ lên đài hát
bài ca mừng chiến thắng gọi là giải phóng miền Nam Việt Nam. Sau đó đã được bí thư đảng CSVN Lê Duẩn cấp phát nhà ở và cho đi du ngoạn ở Mạc Tư Khoa....
Ca sĩ Việt
Nam
có nghèo không?
Một số người cho rằng các ca sĩ Việt
Nam
nghèo cần tiền, nên
cho họ ra ngoại quốc hát để kiếm tiền mưu sinh. Lý luận nầy có thể bắt nguồn từ người dân ở Việt
Nam
cơ cực nghèo đói hiện nay đang sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa do đảng CSVN cai trị. Sự thật không phải thế. Theo tin tức trong nước ghi nhận thì ca nghệ sĩ tại Việt
Nam
không nghèo khó, mà còn khá giả hơn cả những ca-sĩ ở hải ngoại. Minh
Tâm có đến 3 chiếc xe hơi, có tài xế phục vụ. Thoại Mỹ có một ngôi nhà đồ sộ lộng lẫy trị giá đến mấy trăm ngàn Mỹ kim. Hồng Nhung đã bỏ ra đến $10,000 đô la để tặng cho nạn nhân lũ lụt miền Trung, v.v... Thử hỏi giới văn nghệ sĩ ở hải ngoại đã có ai giàu có để làm một việc từ thiện như ca sĩ Hồng Nhung?
Bây giờ chúng ta thử làm một bài
toán cho một buổi đại nhạc hội Thảm đỏ (red carpet concert) sẽ tổ chức tại Dallas,
với 16 ca-sĩ từ Việt nam qua, giá vé trung bình $35 đô la một vé (lấy trung bình từ $25 đến $75), số lượng khán giả 1000 người thì số tiền thâu được khoảng trên dưới $35,000.
Chi phí tiền máy bay, khách sạn, xe cộ ăn uống cho 16
nghệ sĩ từ Việt Nam khoảng $25,000 đô la, cộng thêm các chi phí như ban nhạc, tiền thuê mướn phòng hội sân khấu, linh tinh khác v.v. khoảng $10,000 đô la. Như vậy số thu cho
Nhạc Hội Thảm đỏ còn lại $5,000, chia cho 16 ca-sĩ và ban tổ chức (thí dụ 3 người) trung bình mỗi đầu người chưa đến $300 đô-la. Trong lúc đó mỗi ca sĩ tên tuổi như Nam Trường ở Việt
Nam
mỗi buổi trình
diễn được trả đến $5000 đô-la. Như vậy, thử hỏi ca sĩ từ Việt nam ra hải ngoại để kiếm tiền bằng cách nào, nếu không có những bàn tay bí mật "trợ giá (ngôn từ của NQ-36)" cho họ??? Nói một cách
khác, nếu ai cho là ca sĩ Việt nam nghèo cần ra hát ở hai ngoại để kiếm tiền - phải chăng họ đã lầm to?
Văn hóa vận: Giấy trắng mực đen
Một số người trong cộng đồng thường qui trách các thành phần chống cộng hải ngoại bịa đặt chính sách nầy, đường lối nọ của CSVN, để tìm cách chống phá các đoàn văn nghệ từ Việt Nam ra
hải ngoại, nhất là nghị quyết 36(NQ-36) được nhắc nhở về chính sách văn hóa vận của CSVN.
Vậy NQ-36 là gì, nội dung ra
sao, mục đích để làm gì? Văn bản NQ-36 dài hơn 7 trang, với 4 chương (chapter) và 19 điều, mục đích chính
là để "chiêu hồi" cộng đồng người Việt hải ngoại theo chính sách gọi là "đại hòa giải dân tộc" của đảng CSVN kể từ cuối thập niên 1990's. Riêng về chính sách gởi các đoàn văn nghệ ra hải ngoại, tại chương
3, mục 5 trích đoạn như sau:
III - Nhiệm vụ chủ yếu
1, 2, 3, 4,....
5-.... Tổ chức cho các đoàn nghệ thuật, nhất là các đoàn ca nhạc dân tộc ra nước ngoài biểu diễn phục vụ cộng đồng\. Tạo điều kiện cho các nghệ sĩ, vận động viên là người Việt
Nam
ở nước ngoài về nước biểu diễn, thi đấu, tham gia các đoàn Việt Nam đi biểu diễn và thi đấu quốc tế\. Thường xuyên tổ chức các chương trình giao lưu văn hóa, văn học, nghệ thuật, triển lãm, hội thảo, du lịch về cội nguồn\.
6, 7, 8...
9-... Tăng cường cán bộ chuyên trách về công tác đối với người Việt
Nam
ở nước ngoài tại cơ quan đại diện ngoại giao Việt
Nam
ở những nơi có đông người Việt
Nam
sinh sống\. Bổ sung
kinh phí cho các công tác này\.
Ngoài NQ-36, thủ tướng chính phủ Hà Nội còn ban hành một Quyết định số 210/199/QD, trong đó tại mục 3 được tóm lược như sau:
"Ban vật giá chủ trì, phối hợp với Bộ tài
chánh, văn hóa thông tin, ngoại giao, cục hàng
không và các cơ quan liên hệ nghiên cứu việc trợ giá vé máy bay cho các đoàn văn nghệ ở trong nước giới thiệu đi biểu diễn phục vụ cộng đồng người Việt Nam nước ngoài."
Tạp chí cách mạng CSVN số 11, phát
hành năm 2002 đã xác định: "Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, đảng (CSVN) ta luôn coi trọng văn hóa bao
gồm báo chí nghệ thuật trình diễn sân khấu là vũ khí sắc bén để tuyên truyền, tập hợp, tổ chức và vận động nhân dân"...
Riêng về lời ca tiếng hát để ru ngủ quần chúng, Tố Hữu đã viết: "Rượu cứ rót cho say sưa cực hí. Ðàn ca lên cho át tiếng đầu rơi".
Các cụ xưa thường dạy con cái: "Làm thân con gái chớ nghe đàn bầu".
"Ðàn bầu" ám chỉ người ca hát, con cái sẽ mê muội tiếng hát của người nghệ sĩ. Chữ "bầu" theo nghĩa sâu xa hơn là người con gái dễ bị có bầu (thai) do sự dụ dỗ yêu đương của người ca hát với con cái mình. Tại hải ngoại chính cá nhân tôi đã nghe một giới trẻ thổ lộ:
"Cháu say mê ca-sĩ Trường Vũ đến nổi, nếu cháu có cơ hội được nắm tay anh ta một lần là mãn nguyện sung sướng suốt đời...". Rõ ràng vai trò của người nghệ sĩ ca hát trong chiến dịch văn hóa vận chủ trương qua NQ-36 để chiêu dụ cộng đồng người Việt hải ngoại, đang chống đối họ, quả thật là một chính sách thâm hiểm, nhất là đối với giới trẻ và thành phần không am hiểu thời cuộc vì bận biu sinh kế hằng ngày ở hải ngoại.
* Kết luận:
Từ những luận bàn diễn dịch có chứng liệu đã trình
bày, thiết tưởng vấn đề chống hay không chống các đoàn ca-sĩ từ Việt Nam ra trình diễn ở hải ngoại đã khá minh bạch đối với người tị nạn cộng sản Việt Nam. Chúng ta bỏ nước ra đi, không vì miếng cơm manh áo mà chỉ vì lý tưởng và chính nghĩa đã chọn, hy vọng vì danh dự lương tri của chính mình, chúng ta tự trả lời câu hỏi có nên
chống hay không?
Và nếu có, thì chúng ta chống ai? Người ca-sĩ từ Việt Nam hay chính sách CSVN dùng chiêu bài ca hát để chiêu dụ lôi kéo cộng đồng người Việt hải ngoại, môt tập thể mà họ cho là "khúc ruột ngàn dặm của họ",
thay vì là những phần tử du thủ du thực đầu đường xó chợ như cố thủ tướng Phạm Văn Ðồng đã dõng dạc tuyên bố trước báo chí tại Paris, Pháp năm 1985 (?)..
Cao Chánh Cương
=END=
3- Diễn Ðàn Quốc Nội
- Phong Trào Xanh Việt
Nam
- Green
Vietnam
Movement - Chủ Ðộng Ứng Phó Với Thảm Trạng Ô Nhiễm Môi Sinh Ở Việt
Nam
Thuỷ-Triều
Sự Huỷ Hoại Ô Nhiễm Môi
Sinh có một ảnh hưởng rất lớn lên đời sống của toàn thể sinh vật. Ở đây chúng ta chỉ chú ý tới khía cạnh sức khoẻ của tất cả người Việt
Nam
sinh sống trong cùng một không
gian và thời gian của một môi sinh đã bị ô nhiễm trầm trọng. Không phân biệt người già hay người trẻ, nam hay nữ, thân nhân của cán bộ đảng viên hay của người dân thường, người cộng sản hay người không cộng sản ở trong nước Việt Nam đều đã đang bị những tác hại của sự ô nhiễm môi sinh tất nhiên bao phủ sinh hoạt hàng ngày trong một mức độ nhứt định rất khủng khiếp.
Những người Việt Nam giàu xin đừng nghĩ rằng khi ở trong nhà thì có cửa lưới cửa kiếng ngăn che,
khi đi ra ngoài thì được bịt kín mũi miệng bằng khẩu trang, khi uống nước thì uống nước lọc trong chai, vân vân, mọi thứ là sạch sẽ an toàn.
Trong khi những người Việt
Nam
nghèo vì ở trong nhà chòi tranh
vách lá, vì ở ngoài đường thì mũi miệng hít thở bụi bặm khói xăng, vì uống nước lã ở hồ ao không được vệ sinh, vân vân, mọi thứ không sạch sẽ an toàn nên mới mắc bệnh.
Trên thực tế là tất cả mọi người hiện tại đang sinh sống ở trong nước Việt Nam đều đã đang bị nhiễm một thứ bệnh nào đó và tuỳ theo mức độ nặng nhẹ của bệnh bộc phát hoặc lặng lẽ. Bởi vì những chất độc gây ô nhiễm môi sinh đã ngấm sâu trong nguồn nước, đã thấm đẫm trong các nguồn thực phẩm, đã hoà tan thường trực trong không khí ở khắp nơi trong nước Việt Nam, và NHữNG TÁC H[1]I CỦA Sự Ô NHIỄM MÔI
SINH KHÔNG PHÂN BIỆT MộT NGƯI NO THUộC VO MộT GIAI CẤP
NO CỦA XÃ HộI VIỆT NAM!!
Những tác hại của sự Ô Nhiễm Môi
Sinh đã đang và sẽ còn tiếp tục xảy ra trong cả nước Việt Nam một cách rõ ràng chắc chắn. Khả năng gây bệnh của sự Ô Nhiễm Môi Sinh không những có thể xảy ra tức khắc trong một đầu hôm sớm mai qua một cơn ôn dịch, mà nó còn có thể tích tụ mầm bệnh trong
nhiều ngày tháng tiếp theo qua những thế hệ con cháu bị bệnh di truyền.
Sự Huỷ Hoại Ô Nhiễm Môi
Sinh ở cả nước Việt Nam đã xảy ra liên tục trong 30 năm, từ 1976 đến 2006, được trình bày một cách cụ thể ngắn gọn dễ hiểu như sau:
Các hoạt động khai
thác lâm sản, có quy hoạch chính thức hay bất hợp pháp do phá rừng bừa bãi, hàng năm đã đốn hạ cây rừng nhiều quá mức bình thường, được ước tính là 2 triệu mét khối gỗ đã xẻ mỗi năm. Công
tác trồng lại cây gây lại rừng đã không được thực hiện đúng mức và kịp thời. Tiền lời thu được do xuất cảng gỗ đã vào tay ai, nhưng tiền chi phí cho việc trồng cây gây rừng thì không có. Vì thế "Chương
Trình Trồng Rừng 327" của Việt
Nam
kể từ năm 1994
cho tới nay vẫn không được thực hiện nghiêm túc.
Hơn nữa việc đốt rừng để khai hoang trong mùa khô, hoặc cải tạo những khu rừng cây
tràm, rừng cây đước ở vùng đồng bằng để khai thác việc nuôi tôm xuất khẩu, đã trực tiếp huỷ hoại hệ sinh thái tự nhiên của những khu rừng ngập nước mặn nhiệt đới ở Việt Nam.
Ở vùng cao nguyên, do việc khai
thác lâm sản bừa bãi vô trách nhiệm đã khiến cho đất bị thoái hoá. Bởi vì không còn rễ cây để giữ đất lại trong những khi có mưa lũ nên lớp đất màu mỡ ở phía trên đã bị cuốn trôi đi và làm cho đất dần dần trở nên cằn cỗi.
Trong khi môi trường đất đã đang bị huỷ hoại như vậy, thì môi trường nước ở Việt Nam cũng đã đang bị ô nhiễm rất trầm trọng và nguồn nước sạch càng ngày càng khan hiếm.Môi trường nước đã đang bị ô nhiễm rất trầm trọng do bởi các nguồn nước thải từ các khu gia cư, từ các trung tâm công nghiệp, từ các khu
xí nghiệp sản xuất, v.v...đã đang thẩm thấu hoà tan vào các nguồn nước sạch ở bề mặt, các
nguồn nước sạch ở ngầm sâu dưới đất. Những chất độc có trong các nguồn nước phế thải chảy ra từ các khu chế xuất ở vùng duyên hải Vịnh Hạ Long, Hải Phòng, Ninh Thuận, Bình Thuận, Khánh Hoà, v.v. đã đang làm thay đổi xấu đi phẩm chất nước ven biển ở những vùng đó. Hiện tượng 99% tổng số san hô ở dọc theo toàn bộ bờ biển Việt Nam đều đã bị nhiễm độc cho thấy rõ ràng là sự ô nhiễm môi trường nước rất trầm trọng.
Ðặc biệt ở các
thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Ðà Nẳng, Quảng Trị, Sài Gòn, Ðồng Nai, Cần Thơ, v.v... Nước dùng trong sinh hoạt của các hộ gia cư, nước thải công nghệ từ các xí nghiệp gia công sản xuất, và nước mưa đọng lại rồi rỉ ra từ các bãi rác là nguyên nhân chính yếu làm ô nhiễm trầm trọng các
nguồn nước sạch ở bề mặt, và cả các nguồn nước sạch ở ngầm sâu dưới đất.
Ðại đa số người dân Việt
Nam
trong sinh hoạt ăn uống hằng ngày
thông thường tiêu dùng nước mưa, nước giếng khoan, hay nước ao hồ tự nhiên. Nhưng tất cả các nguồn nước sinh hoạt đó hiện nay cũng đã đang bị ô nhiễm trầm trọng.
Bởi vì bầu không
khí đã bị ô nhiễm do khói độc thải ra từ các nhà máy xí nghiệp, bay quyện vào những đám mây trên trời, hoà tan trong nước mưa rơi xuống, rồi được chứa vào những cái lu cái vại, những cái hồ ao của người dân. Ða số người dân Việt
Nam
vẫn còn không biết rằng đã có những cơn mưa ác-xít
thực sự rơi xuống những chỗ họ trú ngụ. Sau đây là nguyên văn lời của một người dân có nhận xét khách quan về nước mưa ở Việt
Nam
,
"Nếu đặt cốc nước mưa đã đun sôi một lúc sau thì thấy nước chuyển màu vàng óng và đọng lại dưới đáy cốc rất nhiều cặn". Thời kỳ của đa số người dân Việt Nam ưa chuộng uống một ly nước mưa mát lạnh cho đã cơn khát đã trở thành chuyện cổ tích đẹp thuở xa xưa!! Còn bây giờ một ly nước mưa có thể gây ra loét bao tử hay gây ung thư ruột!!
Thật không thể tin được là trong bao nhiêu năm qua hầu như cả bầu không
khí của toàn cõi nước Việt Nam từ Hải Phòng tới Ðà Nẳng, tới Sài Gòn và xuống tận Cà Mau đều đã đang bị xông lên đủ loại mùi hôi thúi của khói thải hóa chất độc hại hoà lẫn với mùi hôi thúi của rác đổ ở những bãi rác công cộng, mùi hôi thúi của vỏ tôm xương
cá ở các nhà máy chế biến, và khói lẫn bụi từ nhà máy xí nghiệp trong khu vực đã làm cho hầu hết các đồ vật gia dụng trong nhà của người dân đều bị phủ một lớp bụi màu than đen. Mùi hôi thúi và khói có lẫn bụi đã đang khiến cho bầu không
khí của cả nước Việt
Nam
quá ngột ngạt khó thở!!
Hơn nữa, việc xử dụng quá mức an toàn
các loại phân bón, thuốc trừ sâu bảo vệ hoa màu và lúa, cũng chắc chắn là nguồn gốc của việc gây ô nhiễm môi sinh, khi nước thải nông nghiệp loại này đã thẩm thấu vào các nguồn nước sạch. Hiện tượng rõ ràng là nhiều vùng ruộng đất ở đồng bằng Sông Hồng và Sông Cửu Long đã bị nhiễm độc chất thạch tín (arsenic), nhiễm độc chất DDT,
nhiễm độc chất chì (Lead).
Sự cố nước Ðài Loan đã không chấp nhận phân phối tiêu thụ trà Ô Long của Việt Nam, và nước Nhật Bản đã trả lại gạo nhập cảng từ Việt Nam chính vì các sản phẩm trà và
gạo đã có nhiễm chất độc của thuốc trừ sâu và phân bón hoá học quá mức tiêu
chuẩn an toàn. Nhưng người Việt
Nam
tiêu thụ ở ngay trong nước Việt
Nam
thì sao? Họ có được biết là trà và gạo mà họ đang ăn uống hàng ngày có bị nhiễm độc hay không?
Những hiện tượng rõ ràng của các chứng bệnh ung thư phổi, ung thư gan, ung thư bao tử, bệnh ghẻ lở, bệnh viêm đường hô hấp, bệnh đường ruột tiêu hoá, bệnh viêm tai mắt mũi họng, v.v,..đã đang hoành hành và giết chết rất nhiều người dân Việt Nam được xác định là do sự Huỷ Hoại Ô Nhiễm Môi Sinh trầm trọng gây ra.
Qua trình bày cụ thể ngắn gọn dễ hiễu như trên, người dân Việt Nam chúng ta phải hiểu rằng sức khoẻ và mạng sống của chúng ta là quan trọng hơn hết. Chúng
ta phải quyết tâm cùng nhau có giải pháp tích cực để tự cứu lấy sự sống của chính mình, của thân nhân, của con cháu trong tương lai.
Toàn thể người dân Việt
Nam
chúng ta phải hiểu rõ là
hít thở một bầu không khí ô nhiễm, uống nước ô nhiễm, ăn thực phẩm ô nhiễm, là chúng ta đã đang, một cách gián tiếp hay trực tiếp, bị đầu độc!!
Hôm nay, toàn thể người dân Việt Nam đang sinh sống trong nước Việt Nam không thể tiếp tục chịu đựng phải sống mãi với một môi trường ÐẤT-NƯỚC-KHÔNG KHÍ đã đang bị chất độc ô nhiễm trầm trọng, và càng không thể để cho những người vô trách nhiệm tiếp tục huỷ hoại và làm ô nhiễm môi sinh từ đời cha đến đời con. Toàn thể người Việt Nam nên hiểu rằng công
cuộc bảo vệ môi sinh là một trọng trách chung của mọi công dân, bởi vì môi trường ÐẤT-NƯỚC-KHÔNG KHÍ ở đây không là của riêng ai, khi môi trường ÐẤT-NƯỚC-KHÔNG KHÍ bị huỷ hoại ô nhiễm thì mọi người đều không được sống khoẻ mạnh vui vẻ. Vì vậy, toàn thể người Việt
Nam
bảo vệ môi sinh cũng có nghĩa là bảo vệ QUYỀN ÐƯợC SỐNG, bảo vệ sự sống của toàn thể sinh vật trong nước Việt
Nam
.
Có lẽ tầm mức quan trọng của một Phong
Trào Bảo Vệ Môi Sinh của nước Việt
Nam
sẽ lôi cuốn được toàn thể người Việt
Nam
hăng hái tham gia. Có lẽ, không
phải chỉ riêng toàn thể người Việt
Nam
trong nước mà còn có cả những người ngoại quốc đang sống và làm việc tại Việt
Nam
cũng ủng hộ phong
trào bảo vệ môi sinh của Việt
Nam
.
Bởi vì họ cũng rất lo sợ phải hít thở một bầu không
khí ô nhiễm, hoặc khi họ muốn thưởng thức ăn uống những món đặc sản của các địa phương mà trong lòng họ lo ngại lỡ lầm nuốt vào những thứ nhiễm độc. Một môi trường ÐẤT-NƯỚC-KHÔNG KHÍ của Việt Nam đã và đang bị ô nhiễm khủng khiếp cũng chính
là nguyên nhân lớn khiến cho những du khách ngoại quốc sau khi đã tới thăm Việt Nam, rồi giã từ một nơi chốn mà lòng đã quyết không trở lại lần thứ nhì!!
Tóm lại, một Phong
Trào Bảo Vệ Môi Sinh của nước Việt
Nam
là một yêu cầu rất khẩn thiết cho
toàn thể người Việt
Nam
.
Một Phong Trào Bảo Vệ Môi Sinh của Việt Nam, hay gọi tên ngắn gọn và có tính cách phổ thông liên đới quốc tế là PHONG TRO XANH VIỆT NAM - GREEN VIETNAM MOVEMENT, sẽ có một khả năng liên kết hỗ trợ rộng lớn với các ÐẢNG XANH -
THE GREEN PARTIES ở trên toàn thế giới trong các vấn đề bảo vệ môi sinh, bảo vệ quyền được sống của tất cả các sinh vật.
Hôm nay, đã hơn 30 năm qua, những kẻ vô trách
nhiệm đã đang huỷ hoại ô nhiễm môi sinh của ÐẤT-NƯỚC-KHÔNG KHÍ của nước Việt
Nam
quá mức nghiêm trọng. Toàn
thể người dân Việt
Nam
không còn có thể chờ đợi một sự cải thiện môi sinh nào được thực hiện từ những kẻ vô trách nhiệm. Sự huỷ hoại ô nhiễm của môi trường ÐẤT-NƯƠC-KHÔNG KHÍ của một nước là tiêu diệt dần dần tất cả sinh vật, tất cả chủng tộc sinh sống trong
nước đó. Vì vậy, do yêu cầu bức thiết của sự sinh tồn, đã tới lúc toàn thể người dân Việt Nam phải đoàn kết nhất trí xây dựng nên PHONG TRO XANH VIỆT NAM để bảo vệ sự sống của chính mình cũng như sự sống của con cháu kế tiếp trong tương
lai.
PHONG TRO XANH VIỆT
NAM
- GREEN VIETNAM MOVEMENT sẽ có một khả năng liên kết hỗ trợ rộng lớn với các ÐẢNG XANH -
THE GREEN PARTIES hiện đang hoạt động trên toàn thế giới, một cách tiêu biểu gồm có một số Ðảng Xanh như sau:
The Green Federations: Federation of Green
Parties of Africa, Green Party of South Africa, Federation of the Green Parties
of the Americas, Green Party of Canada, Green Party of the United States,
Partido Ecologista Verde de México, Asia-Pacific Green Network, Australian
Greens, Green Party of Aotearoa New Zealand, Korea Greens, Green Party Taiwan,
Phillipine Green Party, Japan Niji to Midori/Rainbow and Greens. European
Federation of Green Parties, France Les Verts, Green Party of England and
Wales, Scottish Green Party, Russia The Interregional Green Party, Switzerland
Grüne / Les Verts.
PHONG TRO XANH VIỆT
NAM
.
GREEN
VIETNAM
MOVEMENT
TON THỂ NGƯI
VIỆT
NAM
PHẢI Tự BẢO VỆ MÔI SINH
CỦA MÌNH.
CHÚNG TA HÃY Tự CỨU LẤY
ÐI SỐNG CỦA CHÚNG TA.
Trân trọng kính mời toàn thể Quí Vị góp ý kiến và
chung sức xây dựng.
Phong Trào Xanh Việt
Nam
của toàn thể người Việt
Nam
.
THUỶ-TRIỀU
http://phongtraoxanhvietnam.blogspot.com
* Hình cho thấy người dân Việt
Nam
phải sống trong một Môi
Sinh bị ô nhiễm rất trầm trọng.
=END=
4- Tin Tức Quốc Nội
- Dân oan Lê Thị Nguyệt tường thuật vụ công an Quận 6, Sài Gòn và công an Tiền Giang bắt người vô tội trái phép, trái pháp luật.
Nhóm Ðấu Tranh Vì Công Lý
* Chị Lê Thị Nguyệt (trái), chị Cao Quế Hoa (Phải)
Ðây là chị Lê Thị Nguyệt và chị Cao Quế Hoa. Họ là những dân
oan rất tích cực quê tỉnh Tiền giang - những con người can đảm đã góp phần châm ngòi cho cuộc biểu tình của hơn 1200 đồng tại tại TP Sài Gòn trong 27 ngày và sau đó đã bị công an
CSVN đàn áp khốc liệt đêm 18/7/2007. Thời gian đó anh em dân chủ tại Hà Nội đã thông qua Nhóm Ðấu Tranh Vì Công Lý tại Sài Gòn nhờ vận động 2 chị viết bản tường trình vụ việc của mình và chụp ảnh cá nhân để công bố rộng rãi nhằm bảo vệ những hạt nhân tiêu biểu của phong trào Dân oan Việt Nam đấu tranh. Nhưng tiếc rằng chị Cao Quế Hoa không nhận thức được vấn đề nên không viết bản tường trình vụ việc về hoàn cảnh của gia đình mình và chỉ có duy nhất chị Lê Thị Nguyệt viết.
Ðáng lẽ bản tường trình cùng các hình ảnh này đã được công bố trong những ngày tranh đấu sôi nổi đó, nhưng vị bận rộn chưa kịp làm công việc này. Nay Nhóm Ðấu Tranh Vì Công Lý quyết định phổ biến rộng rãi trước công luận để giúp bảo vệ các chị cho cuộc tranh đấu còn lâu dài của chúng ta.
Nhóm Ðấu Tranh Vì Công Lý phổ biến và tường trình từ Sài Gòn
* Tờ tường thuật của chị Lê Thị Nguyệt
Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam
Ðộc Lập - Tự Do - Hạnh Phúc
Tờ Tường Thuật
V/v Công an 114 Phạm Văn Chí, Quận 6, t/p
Hồ Chí Minh và công an Tiền Giang bắt người trái phép, trái pháp luật, vô tội.
Kính gởi:
- Bộ Trưởng công an
- Cơ quan thông tấn báo chí
trong và ngoài nước.
Tôi tên Lê Thị Nguyệt, sinh năm 1955,
ngụ tổ I số 37 Ấp 5, Xã Tam Hiệp Huyện Châu Thành, Tiền Giang.
Trình về việc như sau: khoảng 13 giờ ngày 30-6-2007, tôi Lê
Thị Nguyệt cùng chị Cao Quế Hoa đi khiếu kiện tại 194 Hoàng Văn Thụ quận Phú Nhuận TPHCM. Từ ngày 22-6-2007 trời mưa liên tục, quần áo thiếu mặc, nên cùng nhau về lấy ít đồ dùng để trở lại TP.
Trước cổng bến xe Miền Tây có
xe 64A1988 đang đón khách, mời chúng tôi lên xe để về ngã tư Ðồng Tâm.
Tôi ngồi khoảng 20 phút, tôi có hối tài xế chạy để chúng tôi trở lên TP. Tôi vất vả khoảng hơn 14 giờ có 1 công an giả là khách đến nói với tài xế chạy vô đây rước 4 người khách. Xe liền chạy theo về tại điểm CA phường phía trong gần cầu ông Buông.
Tại đây có nhiều CA
trong phường ra mời tôi xuống xe. Tôi không chịu xuống xe vì
công an vô cớ, công an mời tôi không có giấy mời. CA ở đây đòi xem chứng minh, tôi nói để tôi điện nhờ người thân tôi đem lại. Họ nhũng nhiễu đủ điều.
Cuối cùng có 1 xe CA chạy dẫn đường, buộc xe tôi chạy theo về CA quận 6, 114 Phạm Văn Chí. Tại đây CA cũng mời tôi, tôi cũng không xuống xe. Kế đến có 4 CA lên xe chúng tôi đang ngồi để đưa chúng tôi về Tiền Giang. Chúng tôi không đồng ý. Yêu cầu chúng
tôi là cho tôi về nhà để trở lên TP cho kịp. Có 2 CA đi theo, tôi biết là ông
Kích
CA
và
Vinh
CA
,
258 Nguyễn Trãi.
Hai
CA
nữa ngồi băng sau, một người giữ chặt tay chị Hoa. Tôi bảo chị Hoa không có tội tại sao anh áp bức chị Hoa và tôi dữ vậy, là CA muốn bắt ai thì bắt dù là vô tội vô cớ.
Tôi vẫn yêu cầu đưa
cho tôi về 194 Hoàng Văn Thụ, Phú Nhuận. CA vẫn khống chế, biểu tài xế chạy về Tiền Giang. Chúng tôi bảo: sao các anh đàn áp cưỡng bức dân khiếu kiện vô tội dữ vậy. Chúng tôi vẫn giằng co với 4 CA đang có trên xe, và sau đó quần áo tôi
bị tuột ra hết.
Khi ấy xe quay trở lại 114 Phạm Văn Chí quận 6. Tại đây tôi
báo với người thân nghe và gọi lại. CA quận 6 không cho chúng tôi nghe người thân gọi lại. Một nữ CA quận 6 đã giựt điện thoại của chị Hoa đang nghe
của người thân hỏi thăm, và kêu cứu bằng miệng. Bà con khiếu kiện nghe tiếng kêu của bên ngoài cổng CA quận 6.
Ðến gần 19 giờ, thì tôi
và Hoa bị CA quận 6 và CA Tiền Giang, CA quận 6 tát vào mặt tôi và đánh vào lưng tôi, bóp cổ tôi, bẻ tay tôi ngất xỉu và đòi lấy chanh bỏ vào miệng, cuối cùng lấy băng keo băng vào miệng tôi cả 10 vòng. Trấn áp làm tôi gãy 1 ngón chân số 5.
Trấn áp sang xe công an dùng chở tội phạm, xe bít
bùng, chạy về Tiền Giang. Trên xe tôi cùng đi với CA Kích có hai nữ CA quận 6 giựt điện thoại chị Hoa cùng đi và hỏi tôi đồng bọn của tôi là ai. Tôi trả lời là Nguyễn Hữu Chí và
Trần Thanh Trung, Phó Chủ tịch tỉnh và bà
Nhản chánh thanh tra Tiền Giang. CA Kíck lấy điện tôi đang reo
và bảo chị nói với bọn của mày và Hoa bị CA Tiền Giang đưa về Tiền Giang, mấy em kéo về hết đi.
Khi về đến trại giam
thì tôi nghe anh CA bên ngoài nói với nhau là Chủ Tịch Tiền Giang điện liên tục bảo CA coi đi các nẻo đường nếu gặp ai khiếu kiện thì bắt về hết.
Tôi vào phòng CA mặc quần áo của mấy nữ CA và có
anh CA đến làm việc. Tôi nói ông Nguyễn Tấn Dũng, ông
chống tham nhũng ở đâu mà ở huyện Châu Thành và Tiền Giang tôi, ông bỏ sót. Ông Nguyễn Minh Triết ơi! Ông đi Mỹ từ 18-6 đến 23-6-2007 trong khi đó thực thi nhân quyền chưa ráo mực mà tôi
là 1 công dân đi khiếu kiện đòi quyền lợi hợp pháp bị tước đoạt, tôi có tội gì mà bị CA quận 6 TPHCM và CA Tiền Giang đối xử vô luật với chúng tôi là người dân vô tội.
Ðể đúng với chủ trương
của ngành CA, 6 điều Bác Hồ dạy CA vì nước quên thân phục vụ. Những vụ việc kia là sự thật tôi xin chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Thành thật biết ơn
Thành Phố Hồ Chí
Minh, Ngày 6-7-2007
Người viết
Lê Thị Nguyệt (đã ký).
=END=
5. Tin Tức Quốc Nội
- Hình ảnh ngoài phiên tòa phúc thẩm xử các đảng viên đảng Dân Chủ Nhân Dân
Nhóm
Phóng Viên Ðấu Tranh Vì Công Lý
Nhóm Phóng viên đấu tranh vì công lý đã vừa cho phổ biến 4 tấm ảnh do nhóm các cô Vũ Thanh Phương, Lư Thị Thu Duyên, Vũ Thiên Nga, Lư Thi Thu Trang... tại Sài Gòn thực hiện sáng ngày 17/8/2007 ở khuôn viên tòa án "nhân dân thành phố Sài Gòn" trong vụ xét xử phúc thẩm vụ án chính trị bác sĩ Lê Nguyên Sang tức Nguyễn Hoàng Long, Ủy viên ban chấp hành Ðảng Dân Chủ Nhân Dân Việt Nam. Khi chụp xong các tấm ảnh này thì công an mật vụ chính trị CSVN đã đến định cướp máy ảnh và xóa phim. Nhưng may mắn họ đã giấu được và hôm nay phổ biến rộng rãi trên mạng internet để dư luận rộng rãi biết.
Ảnh chụp chung cô Vũ Thanh Phương và Lư Thị Thu Duyên với người đeo kính trắng, mặc áo trắng ngồi ghế đá trong khuôn viên tòa án là anh Lê Nguyên Thành, em
trai ruột Bs Lê Nguyên Sang, ngồi kế bên là 1 công dân quê tỉnh Bình Thuận hiện cư trú tại Thị trấn Tân Minh, huyện Hàm Tân - người đội mũ trắng cũng là người đang tham gia biểu tình tại Sài Gòn trong nhưng ngày qua tên là Lương Văn Sinh, sinh năm 1968.
Ảnh chụp cô Lư Thị Thu Trang chị ruột cô Lư Thị Thu Duyên và Vũ Thiên Nga - em ruột cô Vũ Thanh Phương ngồi giữa trên ghế đá với người đàn ông ngồi bên phải tấm ảnh là anh Lê Nguyên Vinh em trai ruột Bs Lê Nguyên Sang, còn người phụ nữ ngồi bên trái là cô Hà người nhà bác
sĩ Lê Nguyên Sang.
Ảnh chụp tập thể các chị em dân oan đều bận đồ trắng biểu thị ủng hộ dân chủ tự do của Khối 8406 phát động đi dự phiên tòa xét xử phúc thẩm Bs Lê Nguyên Sang ngày 17/7//2007. Nhưng các chị em này bị công an ngăn cản không cho vào dự phiên tòa gọi là "Công khai". Người phụ nữ mặc bộ đồ đen tím xám màu là bà Hung Dung, người chị ruột Ls Nguyễn Bắc Truyễn, còn người đàn ông tố cáo đứng hàng sau tên là Ngọc là anh rễ Ls Nguyễn Bắc Truyễn chồng của chị Hai Dung.
Sau khi công an phát hiện ra họ chụp ảnh kỹ niệm tại sân vườn tòa án có trụ sở đặt trên đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, thuộc quận 1 TP Sài Gòn thì hơn 1 chục mật vụ của nhà nước CSVN đã xua đuổi họ ra khỏi khu vực rồi ra lệnh không được tiếp tục chụp ảnh nữa. Họ nói vì đây là khu vực nhạy cảm cấm chụp hình, quay phim nếu không có giấy phép của nhà nước và các cấp có thẩm quyền. Nếu không tuân lệnh sẽ bắt giữ tất cả và tịch thu máy ảnh cũng như toàn bộ điện thoại.
So với việc chụp hình
các cuộc biểu tình ở Thủ đô Hà Nội thì việc đơn giản này thực hiện ở TP Sài Gòn là khó khăn hơn, nguy hiểm hơn, vì ở đây dù sao
cũng là tỉnh lẻ, 1 thành phố tuy lớn nhưng xa đầu não, xa các cơ quan ngoại giao và các tổ chức Quốc tế lớn. Hơn thế nữa lực lượng công an bảo vệ chính trị và hệ thống an ninh mật vụ tại thành phố này cũng ít hiểu biết hơn vê các nhận thức như: Quyền Công dân, Quyền Con người, thế nào lạ bí mật quốc gia? ... và so với công an ở Hà Nội thì họ còn thua kém một vài bậc và đặc biệt họ còn rất cực đoan, cực tả và ấu trỉ hơn nhiều Họ vẫn coi những tấm ảnh đó nói lên sự thật đang diễn ra trong nước như là những bí mật quốc gia tuyệt đối phải giữ gìn và bảo vệ không cho lọt ra thế giới bên ngoài được biết!!!
Thế đấy, ở Việt Nam Tự Do, Dân
Chủ, Nhân Quyền tối thiểu của người dân, của toàn xã hội... cái gì cũng phải được xin phép "nhà nước của Dân, do
Dân và vì Dân" mà ngày nào họ cũng ngoắc mồm tuyên
truyền không ngừng nghỉ và tự vỗ ngực tự nhận một cách trâng tráo, nhưng không hề biết mắc cỡ và có trự trọng là gì.
Thành phố trong ngục tù -
Sài Gòn ngày 19/8/2007
Nhóm Phóng Viên Ðấu Tranh
Vì Công Lý
=END=
6- Tham Khảo
- Quốc Kỳ Việt
Nam
:
Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ
Trương Thúy Hậu
Quốc kỳ là biểu tượng của một quốc gia về ý chí, sức mạnh và sự thống nhất của toàn dân mà mọi công dân đều hãnh diện treo cao, kính cẩn chào khi bình thường và xả thân chiến đấu để bảo vệ khi hữu sự.
Quốc kỳ hiện diện mọi nơi như là hình ảnh và hồn thiêng đất nước, tại các công sở, trường học, các tòa đại sứ đại diện cho quốc gia, dẫn đầu các đoàn thể thao, diễn hành văn hóa... như là niềm kiêu hãnh quốc gia, là người hướng dẫn chỉ đường cho mọi hoạt động của toàn dân, được sinh sống trong công bằng, tự do và dân chủ
Theo lịch sử, quốc kỳ có lâu đời nhất thế giới là quốc kỳ nước Ðan Mạch có từ năm 1219, Hoa kỳ 1776, Pháp 1789, Anh 1801 và Nhật 1858.
* Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ Việt
Nam
(H.1)
Quốc kỳ Viêt
Nam
chính thống và lâu đời nhất là Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ (H.1), được vua Thành Thái, nhà vua yêu nước chống Pháp,
ban hành bằng chỉ dụ vào năm 1890. Có nhiều bài viết về Quốc kỳ Việt Nam: Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ, nhưng có hai
bài được nhiều người biết nhiều hơn cả, đó là bài Tìm hiểu: Quốc kỳ và Quốc ca Việt Nam, của cố Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và bài Quốc kỳ Việt Nam: Nguồn gốc và Lẽ chính thống, của Kỹ sư Nguyễn Ðình Sài. Bài của cố Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, viết năm 1986
khi các dữ kiện thông tin trên Internet chưa hình thành, nên có khác biệt với bài của Kỹ sư Nguyễn Ðình
Sài viết năm 2004, có nhiều tài liệu hơn. Tất cả các bài viết trên đều thống nhất ở một điểm là: Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ (yellow flag with three horizontal red stripes) là lá cờ đầu tiên, chính thống và là di sản của toàn dân Việt Nam, chống Thực dân Pháp và Cộng Sản.
Do Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ chống thực dân
Pháp trước đây và Cộng Sản Việt Nam sau
này, nên các tài liệu và dữ kiện liên quan về lịch sử lá cờ đều bị thực dân Pháp và đảng Cộng Sản Việt Nam che giấu, bưng bít và tiêu hủy mà cho tới nay, với tính lịch sử quan trọng của vấn đề, vẫn chưa được mọi công dân Việt Nam hiểu biết được rõ ràng và tường tận lá cờ mà cha ông chúng ta đã hãnh diện và đổ biết bao nhiêu xương máu để hi sinh vì tương lai đất nước và dân tộc.
Ðã 117 năm qua, kể từ năm 1890 lá
Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ như là trụ cột, đã hướng dẫn quốc dân Việt Nam vượt qua biết bao sóng gió của lịch sử nước nhà trong công cuộc chống thực dân
Pháp trước đây và Cộng Sản nhằm đem lại công bằng, tự do dân chủ và hạnh phúc cho toàn dân.
Trước tình thế mới có tính
quyết định sự thống nhất lòng dân về một mối, đã đến lúc mọi công
dân Việt Nam, hiện sống ở trong nước cũng như đang ở hải ngoại, cần phải thấu hiểu nguồn gốc xuất hiện và ý nghĩa thiêng liêng của lá quốc kỳ Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ, vì yêu cầu cấp bách đòi hỏi phải đáp ứng, để toàn dân đồng tâm nhất trí tiến lên dưới ngọn cờ chính nghĩa biểu hiện tinh thần quốc gia dân
tộc mà tiền nhân đã xây dựng, cương quyết phất cao và tiến lên viết trang sử mới của một nước Việt Nam của thế kỷ 21, không còn Cộng Sản.
Trở lại lịch sử của thời kỳ chống thực dân
Pháp và sự xuất hiện của Cờ vàng Ba Sọc Ðỏ vào năm 1890, trong bối cảnh đầy oai hùng và khí phách của lịch sử dân tộc, mà cha
ông chúng ta chiến đấu chống quân thù diễn tiến như sau:
Vào năm 1858, thực dân
Pháp nổ súng vào cửa biển Ðà Nẳng, mở đầu cuộc xâm chiếm nước ta. Ngay từ buổi đầu và trong suốt hơn 30 năm kháng chiến chống thực dân Pháp từ đó cho đến khi Nhà vua yêu nước, vua Thành Thái phất cờ chống Pháp
qua chỉ dụ Quốc kỳ Việt Nam: Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ năm 1890,
có những cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp được tóm tắt như sau:
- Miền Nam có Trương
Ðịnh, Nguyễn Trung Trực, Thủ Khoa Huân, Thiên Hộ Dương...
- Miền Trung có Phan Ðình Phùng, Ðinh
Công Tráng, Mai Xuân Thưởng, Nguyễn Duy Hiệu...
- Miền Bắc có Hoàng Hoa Thám,
Nguyễn Thiện Thuật...
Tất cả các công cuộc chống Pháp mạnh mẽ trong thời kỳ này đều bao gồm trong 2 phong trào là Văn Thân (The literati) nhằm chống lại hiệp ước 1874 và Cần Vương (Save the King) chống lại hiệp ước 1884.
Mặc dầu vậy, sự kháng
Pháp vẫn thất bại, triều Nguyễn phải ký nhiều hiệp ước bất bình đẳng với thực dân Pháp, đặc biệt hiệp ước ký năm 1884 dưới thời vua Phúc Kiến phải chịu sự bảo hộ của thực dân Pháp. Theo hiệp ước Giáp
Thân ký tại Huế ngày
6-6-1884 thì nước Việt
Nam
bị thực dân Pháp chia cắt làm 3
phần:
- Miền Nam, là thuộc địa Pháp, được gọi là Cochinchina,
- Miền Bắc, theo chế độ nửa thuộc địa, nửa bảo hộ, được gọi là Tonkin
- Miền Trung, bao gồm từ Bình Thuận đến Thanh Hóa, thực dân Pháp áp đặt chế độ bảo hộ, và đặt tên là
Annam
, dùng lại danh xưng mà người Tàu đã dùng để chỉ nước Việt
Nam
chúng ta.
Vậy là, chỉ trong
vòng 24 năm, kể từ năm 1858 cho đến năm 1884, từ một đất nước Việt Nam độc lập,với dân số khoảng gần 7 triệu người, (theo Historical Estimates of World Population) có chủ quyền và rộng lớn với diện tích là
128.400 sq mi/ 332.642 km2, thì từ năm 1884, thực dân
Pháp đã chiếm hết hơn một nửa đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta, đổi thành nước Annam, với diện tích còn lại là 58.000 sq mi/ 150.200 m2, chỉ gồm phần đất miền Trung, lại đặt dưới qui chế bảo hộ, quyền hành nằm trong tay người Pháp, với các viên quan người Pháp cai trị địa phương như Toàn quyền,Thống đốc, Thống sứ, Công sứ... Ở miền Trung, có toà Khâm sứ, đặt cạnh triều đình Nguyễn ở Huế. Cả 3 miền đất nước bị sát nhập vào Liên bang Ðông Dương (French Indochina) năm 1887,
bao gồm thêm hai nước lân bang là
Cam
bốt và Lào, dùng cờ duy nhất là cờ Tam tài
của Pháp.
Vì vậy, một năm sau khi
phải chịu ký hiệp ước bất bình đẳng đó với Pháp, trước cảnh nước mất nhà tan, toàn thể quân dân ta nổi dậy tấn công quân Pháp trú đóng tại đồn Mang Cá - Huế ngày 5 tháng 7 năm 1885 (đêm 22 rạng gày 23 tháng 4 âm lịch). Cuộc binh biến không
thành, vua Hàm Nghi chạy ra Tân Sở - Quảng Trị, và xuống chiếu Cần Vương, được sĩ phu và dân chúng khắp cả nước ủng hộ mạnh mẽ. Bốn năm sau, do sự phản nghịch của tên Trương Quang Ngọc, nhà vua bị bắt (năm 1888), khi đó mới 16 tuổi, và cuối năm đó, vua bị thực dân Pháp đày qua
Algeria
(Phi
châu).
* Cờ Vàng Ðại
Nam
(H.2)
Cũng một năm sau khi
vua Hàm Nghi chống Pháp bị bắt và bị đi đày, năm 1889 vua Thành Thái lên ngôi. Nhà vua và các cận thần, cũng như các sĩ phu Việt Nam nhận định rằng, dưới lá cờ Cần Vương là Cờ Vàng
(1802-1885, hình phải) của nhà Nguyễn có từ thời vua Gia Long và Cờ Vàng Ðại Nam (1885-1890, hình trái H.2) của vua bù nhìn Ðồng Khánh, theo lệnh Pháp, thay thế sau đó, đã không còn đủ sức thuyết phục, không tập trung được sức mạnh toàn dân vì các phong trào nổi dậy với mục đích chỉ là cứu vua (Cần vương),
lại còn cấm đạo (Văn Thân bình Tây sát Tả) cũng như xác quyết Viêt
Nam là một quốc gia độc lập, thống nhất, lãnh thổ bất khả phân, (không như người Pháp áp đặt theo hiệp ước 1884), nên vua Thành Thái (1879-1954) đã có chỉ dụ ban hành Quốc Kỳ Việt Nam: C VNG BA SọC ÐỎ năm 1890, là lá cờ chính nghĩa cho sự đoàn kết và thống nhất quốc gia. Quốc gia thuộc về toàn dân.
Ở đây, nên ghi nhận thêm rằng là, lịch sử hình
thành quốc kỳ Việt Nam: Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ, cũng như sự hình thành quốc kỳ các nước, đều có khởi điểm từ những quốc biến trọng đại tương tự, ví như sự hình thành của quốc kỳ Ðan Mạch (The Dannebrog) năm 1219,nhà vua nước này là Waldemar II đã treo lên khi đánh thắng quân
Estonia, hoặc như là quốc kỳ Nhật Bản (Hinomaru) là lá cờ tiên phong, do thiền sư Nichiren, dâng lên
vị tướng quân thống lãnh, trong công cuộc chiến đấu chống quân xâm lăng Mông Cổ trong năm 1274, và chính thức trở thành quốc kỳ dưới triều Minh Trị Thiên Hoàng, từ năm 1858 cho đến nay.
Tại giai đoạn lịch sử này, Vua
Thành Thái đã cùng các cận thần là Ðào Tấn, thượng thư bộ Hộ và Lê Văn Miến, hành tẩu bộ Hộ, bí mật xây dựng lực lượng vũ trang, chế tạo vũ khí và cất dấu trong Duyêt Thị Ðường, để mưu cầu khởi nghĩa chống Pháp, tiếp tục sự nghiệp của vua Hàm Nghi. Công việc bị bại lộ, nên năm 1905 vua Thành
Thái tìm cách trốn ra nước ngoài, qua ngã Trung Hoa, nhưng bị bắt lại. Năm 1907,
thực dân Pháp, qua Cơ Mật Viện thuộc triều đình Huế, ép vua từ chức và quản thúc vua tại Vũng Tàu. Năm 1907, vua Duy Tân lên ngôi và mưu cầu chống Pháp
theo gương vua Cha là vua Thành Thái, kể từ đây các
cao trào nổi dậy chống Pháp dữ dội dưới ngọn cờ dân tộc C VNG BA SọC ÐỎ mà vua Thành Thái đã có dụ ban hành
năm 1890, là:
- Phong trào chống thuế ở miền Trung của Trần Quí Cáp
năm 1906
- Cuộc khởi nghĩa tại kinh thành Huế của vua Duy
Tân cùng Thái Phiên và Trần Cao Vân năm 1916
- Cuộc khởi nghĩa Thái
Nguyên của Trịnh văn Cấn và Lương Ngọc Quyến năm 1917.
- Biểu tình chống Pháp tại Tòa Ðề hình
Pháp ở Hà Nội, về án chung thân khổ sai của Phan Bội Châu, lãnh tụ Việt Nam Quang Phục Hội năm 1925.
- Cuộc khởi nghĩa Yên Bái
của Việt Nam Quốc Dân Ðảng do đảng trưởng Nguyễn Thái Học lãnh đạo năm 1930...
Công cuộc chống Pháp của vua Duy
Tân, qua cuộc khởi nghĩa ở kinh thành Huế năm 1916, cũng bị thất bại. Quân khởi nghĩa bị tàn sát dã man. Vua Duy Tân bị thực dân Pháp bắt và đày qua Réunion, Phi Châu cùng phụ hoàng là vua Thành
Thái ngay trong năm đó. Công cuộc chống thực dân Pháp của toàn dân sau đó vẫn mạnh mẽ tiếp tục dưới ngọn cờ Vàng Ba
Sọc Ðỏ cho đến sau này. Tiếc thay Hồ Chí Minh đã theo lệnh Cộng Sản đệ tam quốc tế, thành lập đảng Cộng Sản Việt
Nam
(1930) và xử dụng hệ thống cờ Cộng Sản quốc tế: Cờ Ðỏ Sao
Vàng; và Cờ Búa Liềm (1945). Sau khi quân Nhật bại trân, trái với ý nguyện toàn
dân và chỉ dụ của vua Thành Thái, Hồ Chí Minh đã thỏa hiệp với thực dân Pháp qua thỏa ước sơ bộ ngày 6-3-1946 đón quân Pháp trở lại Việt Nam, rồi gây ra hai cuộc chiến tranh không cần thiêt, kéo dài mất 30 năm, gây không biết bao nhiêu đau thương tang tóc cho dân tộc, cho đến năm 1975.
Trên đây là bối cảnh và sự ra đời của quốc kỳ Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ qua lịch sử. Những diễn tiến về công cuộc đấu tranh của con dân Việt dưới bóng Cờ Vàng đã và đang còn tiếp tục, sẽ được đề cập ở phần sau.
Theo môn Cờ học
(Vexillology), trong số 20 mẫu cờ của hơn 200 quốc gia trên thế giới hình thành với ý nghĩa thiêng liêng của chính nó, thì quốc kỳ Việt Nam Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ, xét về mặt chuyên môn như sau:
- về dạng thiết kế thuộc loại ba vạch, hai màu
(triband, bicolor).
- về màu sắc thì màu vàng và màu đỏ là màu thông dụng. So với quốc kỳ các nước trên thế giới thì màu vàng thường được dùng làm cờ chiếm tỉ lệ là 43% và màu đỏ là 70%
- về kích thước mẫu của Quốc kỳ Việt Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ là chiều cao (rộng) của cờ bằng 2/3 chiều dài (ratio 2:3). Ðây là tỉ lệ thông dụng nhất được dùng so với quốc kỳ các quốc gia khác
- ý nghĩa phổ quát quốc tế về màu cờ được xử dụng trong quốc kỳ các nước, thì màu vàng, là biểu thị của mặt trời, sự thịnh vượng và công lý. Màu đỏ, biểu tượng lòng dũng cảm và sự hi sinh.
Theo người dân Việt
Nam
chúng ta thì Cờ Vàng Ba
Sọc Ðỏ mang tính triết lý là biểu tượng của toàn dân Việt
Nam
,
máu đỏ da vàng, ba miền Trung
Nam
Bắc đoàn kết và thống nhất.
Ngoài ra quốc kỳ Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ còn thêm
các đặc điểm sau:
- màu sắc giản dị, rõ
ràng, trẻ em cũng có thể vẽ được dễ dàng qua trí nhớ
- không trùng hợp với bất cứ quốc kỳ nào trên
thế giới.
- dễ phân biêt, dễ thấy từ xa trong
rừng cờ, khi bay trong gió.
- bao hàm đầy đủ ý nghĩa và là biểu tượng cao nhất của quốc gia Việt
Nam
.
Dưới khía cạnh chuyên
môn của môn Cờ học (Vexillology) và những qui thức của Liên hiệp các hội cờ quốc tế (FIAV),
thì Cờ Vàng Ba
Sọc Ðỏ được đánh giá là một mẫu cờ đẹp (good flag), nhất là biểu tượng triết lý quốc gia dân tộc.
Trong hai bài viết về Quốc kỳ Việt
Nam
như đã nói trên, cũng như nhiều bài viết khác,
cho rằng người vẽ mẫu quốc kỳ Việt
Nam
:
Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ là họa sĩ Lê Văn Ðệ (1906-1966). Ðiều này không đúng.
* Họa sĩ Lê Văn Miến (H.3)
Trái lại, người sáng tạo ra Quốc kỳ Việt Nam: Cờ Vàng Ba Sọc là Họa sĩ nổi tiếng Lê Văn Miến (1873-1943), người họa sĩ đầu tiên của nền hội họa Việt Nam (hình trái, H.3 trên), vẽ vào năm 1890, khi đang học tại trường Cao Ðẳng Mỹ Thuật Quốc Gia Pháp (École nationale supérieure des Beaux Arts). Quốc kỳ Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ có từ năm 1890, so với năm sinh của họa sĩ Lê Văn Ðệ, thì chắc chắn là không phải. Vả lại, ở giai đoạn này, triều đình Huế còn xử dụng chữ Hán trong các công văn, và cho đến năm 1917 mới bỏ khoa thi chữ Hán, nên có thể có sự nhầm lẫn khi đọc chữ Miến và chữ Ðệ, nhất là trong lối viết thảo thư của chữ Hán.
Như trên đã nói, Cờ Vàng Ba
Sọc Ðỏ là đối thủ hàng đầu của thực dân Pháp và của đảng Cộng Sản Việt Nam nên từ khi ba vị Vua chống Pháp bị đi đày, cho đến nay lịch sử quốc kỳ Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ bi gián đoạn xử dụng gồm 2 thời kỳ:
* Cờ Vàng Một Sọc Ðỏ Lớn (H.4)
- Dưới chế độ thực dân Pháp: từ năm 1920 đến năm 1948, chính quyền bảo hộ Pháp, qua vua bù nhìn Khải Ðịnh, đã thay đổi hình dạng Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ, nhập ba sọc đỏ làm thành một sọc đỏ lớn (hình phải - H.4), vì người Pháp cho rằng, nước Việt Nam chỉ còn là nước Annam, mà theo hiệp ước năm 1884,
chỉ gồm từ Bình Thuận đến Thanh Hóa, hơn nữa thay đổi mới để bắt buộc người dân chấp nhận hiện tại, quên đi một nước Việt Nam gồm ba miền (cờ ba sọc), cũng như kìm hãm và tiêu diệt phong trào chống thực dân
Pháp. Ngoài ra, cũng cần thêm rằng, ở giai đoạn cuối của chủ nghĩa Thực dân tại Việt Nam, người Pháp dã tâm lập Nam Kỳ Quốc, là phần đất Nam phần hiện nay, với Cờ Vàng ba sọc xanh (hình phải, H.5 dưới) nhưng chỉ tồn tại có 2 năm, từ tháng 6 năm 1946 đến tháng 6-1948.
* Cờ Vàng ba sọc xanh
(H.5)
- Dưới chế độ Cộng sản Việt
Nam
: từ 1954 đến 1975 ở miền Bắc và từ 1975 cho đến nay. Ðảng Cộng Sản Việt
Nam
,
nằm trong hệ thống đệ tam Quốc tế Cộng Sản, do Hồ Chí Minh thành lập năm 1930. Năm 1945, đảng Cộng Sản Việt
Nam
cướp chính quyền từ tay
chính phủ Trần Trọng Kim, thân Nhật với Cờ Quẻ Ly (hình trái - H.6). Cờ này chỉ xuất hiện trong
vòng 4 tháng từ ngày 17-4-1945 đến ngày 23-8-1945. Ngày 2-9-1945, đảng Cộng Sản Việt
Nam
lên nắm chính quyền và xử dụng Cờ Ðỏ Sao Vàng
làm quốc kỳ.
* Cờ Vàng quẻ ly (H.6)
Ðể nắm độc quyền cai trị với chế độ độc đảng, nhằm loại trừ các đảng phái quốc gia chống Pháp và chống Cong, Hồ Chí Minh ký hiệp ước sơ bộ với Pháp ngày 06/03/1946, chấp nhận cho
Pháp mang 15.000 quân từ miền
Nam
ra đóng ở Bắc Việt.
Ngày 19/05/1946 Ðô đốc D'Argenlieu của Pháp đến Hà Nội và đã được chính quyền Cộng Sản đón
rước long trọng, tràn ngập cờ đỏ sao vàng, trước sự ngỡ ngàng của dân chúng thủ đô. Và để lừa dối dân chúng, Hồ Chí Minh đã bịa đặt đó là ngày sinh nhật của chính mình. Sử gia Phạm Văn Sơn trong bộ Việt Sử Toàn Thư ở phần 4 - chương 5 mục "Những mưu mô của hai phe Thực, Cộng" trang 494 đã viết
"Tóm lại việc ký Sơ ước 6-3 là điều lợi cho cả hai phe Thực, Cộng và chỉ tai hại cho những người quốc gia mà thôi".
Sau đó, dưới lá Cờ Ðỏ Sao Vàng, đảng Cộng Sản Việt Nam đã tự động gây nên cuộc chiến tranh không cần thiết với Pháp, kéo dài đến 9 năm (1946-1954), làm thiệt mạng 1.000.000 người Việt, bất kể những thỏa ước ký ngày 8-3-1949 tại điện Élysée
giữa vua Bảo Ðại và Tổng thống Pháp Vincent Auriol, công nhận nền độc lập của Việt Nam, tương tự như trường hợp nước Ấn Ðộ năm 1947 đã dành độc lập từ tay Anh và Pháp, cũng như các quốc gia
khác, đã làm được, khi chủ nghĩa thực dân đã đến hồi cáo chung, mà không cần tốn xương máu của nhân dân. Sau đó, do không chiếm được cả nước, để Cộng Sản hóa toàn nước Việt Nam theo chủ trương của Cộng Sản quốc tế, Hồ Chí Minh đã âm mưu để chia đôi đất nước Việt Nam năm 1954, mặc dầu gặp phải sự phản đối dữ dội của toàn dân Việt, rồi sau đó, vi phạm hiệp định Genève, lại tiếp tục gây chiến tranh với miền Nam suốt thêm 21 năm nữa, làm cho 3.000.000 người Việt bị chết oan uổng, cho đến khi chiếm được miền Nam vào ngày 30-4-1975, và tuyên truyền dối trá là đã có công thống nhất đất nước.
Tại những vùng
"giải phóng" do Cộng Sản kiểm soát, từ năm 1945 trở đi, ở miền Bắc từ năm 1954 đến 1975, và trên toàn lãnh thổ Việt Nam từ 1975 đến nay, hình ảnh quốc kỳ Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ đầu tiên và chính thống có từ năm 1890, kế tục trung thành và lâu dài qua các chế độ từ đó (1890) cho đến nay, vì bị cấm treo, nên chỉ còn lại trong tâm khảm người dân những hoài niệm về tinh thần bất khuất chống thực dân Pháp, những uất hận về âm mưu của Thực-Cộng và dân chúng chỉ còn hi vọng tương
lai đất nước ở một ngày mai tươi sáng hơn, khi không còn Cộng Sản, khi ngọn Cờ Vàng chính nghĩa được phất phới tung bay trên toàn lãnh thổ.
* Cờ Mặt Trận GPMN,
công cụ của đảng CSVN (H.7)
Người dân Việt Nam, quả thực do sự oái oăm của lịch sử đã bị sống oan ức trong bức màn sắt của Cộng Sản, bị lừa dối và hi
sinh oan uổng cho chủ nghĩa Cộng Sản quốc tế. Ðặc biệt, dưới lá Cờ Búa Liềm, Cờ Ðỏ Sao Vàng và Cờ của Mặt Trận Giải phóng Miền
Nam
(hình phải - H.7), một công cụ của đảng Cộng Sản Việt
Nam
,
tất cả đã gây nên những tội ác lịch sử sau:
- Ðưa dân tộc Việt
Nam
vào địa ngục cộng sản, làm
tay sai cho cộng sản quốc tế (Liên Sô, Trung Quốc...).
- Cắt nhượng đất (Bản Giốc-Cao Bằng, Trường Sa) và biển (một phần vịnh Bắc Việt) cho Trung Quốc.
- Chia đôi đất nước Việt
Nam
tại vĩ tuyến 17, vì
quyền lợi riêng của đảng Cộng sản.
- Hủy hoại tận gốc rể nền tảng đạo lý dân tộc đã có 4.000 năm văn hiến.
- Gây ra hai cuộc nội chiến tương
tàn 30 năm làm làm thiệt mạng hơn 4.000.000 người dân Việt.
- Gây nên biết bao đổ vỡ, tang thương không hàn gắn được, trong lòng dân tộc, mà lịch sử Việt
Nam
không bao giờ có.
- Thảm sát hàng ngàn vị lãnh đạo các đảng phái quốc gia, tôn giáo, trí thức, nhân sĩ... chống lại Cộng Sản từ năm 1945 trở đi.
- Cải cách ruộng đất tại miền Bắc giết chết hơn 172.000 người dân vô tội từ năm 1949 đến năm 1956.
- Hành hạ và cầm tù các
văn nghệ sĩ miền Bắc chống đối, qua vụ Nhân Văn Giai Phẩm năm 1956.
- Thảm sát hơn 6.000
thường dân vô tội tại Huế trong dịp Tết Mậu Thân năm 1968 và nhiều nơi khác trên toàn miền
Nam
.
- Giết hằng ngàn và cầm tù hằng trăm ngàn người trong các trại cải tạo tại miền
Nam
sau ngày
30-4-1975.
-
500.000 người chết ngoài biển cả khi chạy trốn khỏi chế độ Cộng sản Việt
Nam
...
Cờ Ðỏ Sao Vàng xuất hiện lần đầu tiên trong cuộc nổi dậy của Cộng sản tại Nam kỳ vào năm 1940 và
trở thành quốc kỳ vào năm 1945 bởi sắc lệnh của Hồ Chí Minh ngày 5-9-1945, và cho tới nay nhà nước Cộng Sản Việt Nam cũng không xác định được ai là tạo mẫu cờ này, Nguyễn Hữu Tiến hay Lê Quang Sô?
Theo sự giải thích về cờ này,
trong các tài liệu của đảng Cộng sản Việt
Nam
như sau:
- Nền cờ màu đỏ, tượng trưng cho sự đấu tranh giai cấp.
- Ngôi sao vàng 5 cánh ở giữa, là biểu hiện của 5 thành
phần: sĩ, nông, công, thương, binh đoàn kết.
* Cờ Liên Sô cũ (H.8)
Ðảng Cộng sản Việt Nam lấy mô hình cờ Liên Sô cũ, (hình
trái - H.8) áp dụng từ năm 1924 dưới thời Lénin cho đến năm 1991, khi đảng Cộng Sản Liên Sô tan rã, tách làm 2 phần để làm
thành cờ nước và cờ đảng Cộng sản Việt Nam như sau:
- Nền đỏ, hình
búa liềm màu vàng đưa vào chính giữa nền, làm thành cờ đảng từ năm 1930.
- Nền đỏ, ngôi
sao đỏ viền vàng, đổi thành sao vàng, đưa vào chính giữa, làm thành cờ nước từ 1945 đến nay là quốc kỳ Cộng hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.(hình bên dưới - H.8)
* Cờ đỏ sao vàng
CSVN (Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa VN - H.8)
Biểu tượng của Cờ mang ý nghĩa đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa cộng sản, mà đảng CSVN đã đề ra trong cương lĩnh từ năm 1930, gây nên hận thù và chia rẽ và không phù hợp với tinh thần đạo lý, tính yêu chuộng hòa bình, tính
khoan dung, độ lượng của dân tộc Việt Nam... Ngoài ra, phân
chia thành phần sĩ nông công thương binh là không cần thiết, vì đó là nền tảng xã hội của mọi quốc gia, ngoại trừ nhằm mục đích là để phân biệt đối xử, làm nền tảng căn bản cho đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Cộng Sản. Tính triết lý của cờ là chỉ phục vụ chủ nghĩa cộng sản quốc tế, không phù hợp với nguyện vọng quốc gia dân
tộc. Cờ này dễ nhầm lẫn vì tương tự với quốc kỳ nước Morocco, (hình phải - H.9) ở châu Phi đã có từ năm 1915. Và điều quan trọng hơn nữa là Cờ Ðỏ Sao Vàng rập khuôn mẫu hình cờ của các quốc gia cộng sản đàn anh là Liên Xô cũ và Trung cộng, làm mất đi lòng
kiêu hãnh dân tộc, không thống nhất được lòng dân, do đó đã tạo đà cản trở mọi sinh hoạt cộng đồng quốc gia vậy.
* Cờ nước Morocco
(H.9)
Dựa theo các tiêu chuẩn nêu
trên của môn Cờ học (vexillology) và qui thức của FIAV, thì Cờ Ðỏ Sao Vàng là cờ xấu (bad flag) về cả hình thức lẫn nội dung.
Như trên đã nói,
sau khi đảng Cộng sản Việt Nam theo lệnh Cộng sản quốc tế, thỏa hiệp với Thực dân để chia đôi đất nước vào năm 1954 tại vĩ tuyến 17. Miền Bắc, theo chế độ Cộng Sản với nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, xử dụng Cờ Ðỏ Sao Vàng, gần một triệu người từ miền Bắc may mắn trốn chạy được vào miền Nam, sống dưới chế độ tự do của nước Việt Nam Cộng Hòa với Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ. Nhưng sau đó, đảng Cộng Sản Việt Nam, xé bỏ hiệp định Genève 1954 và hiệp định Paris
1973, gây nên cuộc nội chiến kéo dài 21 năm, làm hao tổn không biết bao nhiêu xương
máu và tài sản của nhân dân (không như trường hợp thống nhất của nước Ðức năm 1990), cho đến khi chiếm được toàn miền Nam vào ngày 30-4-1975, và đổi danh xưng cả nước, thành nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam vào năm 1976. Hàng triệu người Việt lại phải bỏ hết tài sản, bất chấp sinh mạng, hàng trăm ngàn người phải bỏ xác ngoài biển cả, trốn chạy chế độ Cộng Sản Việt Nam, vượt biên, vượt biển ra nước, mang theo di sản duy nhất là Quốc kỳ Việt Nam: Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ, tượng trưng cho nền độc lập và tự do của tổ quốc.
Người Việt trốn chạy Cộng Sản qui tụ thành
các cộng đồng hải ngoại ở khắp năm châu,
nay đã lên tới hơn 3 triệu người, sống rải rác tại 90 quốc gia. Tuy được sống trong các chế độ tự do dân chủ thuộc các quốc gia trên thế giới, nhưng lòng luôn hướng về tổ quốc, đất nước Việt Nam thân yêu và dân nhân đang sống đọa đày dưới chế độ Cộng Sản, không có công bằng tự do dân chủ, nên luôn luôn tranh đấu để đất nước sớm thoát khỏi chế độ độc tài đảng trị Cộng Sản, để người dân được sống trong công bằng, tự do và no cơm ấm áo.
Hình thức tranh đấu cao nhất là Chiến dịch Cờ Vàng, nhằm mục đích là dấy lên
lòng yêu nước, tưởng nhớ công lao tiền nhân, anh hùng liệt sĩ, chiến sĩ vô danh, đã hi sinh anh dũng chống thực dân Pháp và Cộng Sản dưới ngọn Cờ Vàng thiêng liêng, cũng như kêu gọi mọi người dân trong nước, nhất là thế hệ trẻ, thanh niên, sinh viên, học sinh,
không có
cơ hội để tìm hiểu lịch sử nước nhà, vì sự lừa dối, bưng bít và cấm đoán của đảng Cộng Sản Việt Nam, để từ đó, mọi công dân Việt, cùng nhau đứng lên dưới ngọn cờ chính nghĩa, mà vua Thành Thái đã phất lên năm 1890 để hướng dẫn toàn dân chống thực dân Pháp trước đây, cũng như để đạp đổ chế độ Cộng Sản hôm nay, nhằm mục đích tối hậu là xây dựng một đất nước Viêt Nam hùng mạnh, người dân có được cuộc sống công bằng, tự do, dân chủ, nhân quyền và hạnh phúc, trong thế kỷ 21 này.
Về Chiến dịch Cờ Vàng, được phát động mạnh mẽ và gặt hái được nhiều thành tích tốt đẹp, chẳng hạn như trong
quyết nghị của Hội đồng thành phố Boston, tiểu bang Massachusetts-USA, ngày 30 tháng 7 năm 2003,
và các bản quyết nghị tương tự khác, xác lập ở đoạn 4 về quốc kỳ Việt Nam 1890 C VNG BA SọC ÐỎ, như sau:
This yellow flag with three red
stripes is widely embraced because of its long history as a symbol of
resilience, freedom and democracy BOTH IN VIET NAM ITSELF AND VIETNAMESE -
AMERICAN COMMUNITIES THROUGHOUT BOSTON AND ELSEWHERE; AND
Quốc kỳ Việt Nam:
C VNG BA SọC ÐỎ là lá cờ nguyên thủy và chính thống của toàn dân Việt Nam, là biểu tượng trường cửu chiến đấu cho tự do dân chủ của mọi công dân hiện đang sống (tự do) ở hải ngoại hay còn (bị kềm kẹp) ở trong nước.
Ðó cũng là tinh thần của 124 Quyết nghị của 113
thành phố và 11 tiểu bang Hoa Kỳ đã công nhận Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ từ tháng 2 năm 2003 cho đến nay và còn tiếp tục, là lá cờ của toàn thể nhân dân Việt Nam kiên cường và bất khuất.
Về mặt quốc tế, sự sụp đổ của đảng Cộng Sản Liên Sô năm 1991 và
những nước Cộng Sản chư hầu Ðông âu những năm sau đó, cũng như quyết nghị số 1481 của Quốc hội Âu châu ngày 25-1-2006 tại Strasbourg, lên án chủ nghĩa cộng sản là tội ác chống nhân
loại và các đài kỷ niệm 100 triêu nạn nhân Cộng Sản trên thế giới, hiện đang được xây dựng tại nhiều thủ đô trên thế giới, như là hồi chuông chung cuộc, nói lên sự sụp đổ tất yếu của các chế độ Cộng Sản vô nhân trên thế giới còn lại, trong đó có chế độ Cộng Sản Việt Nam.
Riêng tại Việt Nam, với tội ác của đảng Cộng Sản Việt Nam như đã nêu ở trên, với thần tượng Hồ Chí Minh giả tạo đang bị vạch trần và đạp đổ, với tham nhũng, thối nát và độc tài đảng trị của chế độ, cũng như sự ra đời của các đảng phái đối lâp, sự hình thành khối dân chủ 8406, phong trào công nhân đình công và nông dân nổi dậy chống cướp đất, chống áp bức, độc tài, đòi hỏi công lý, nhân quyền và tự do dân
chủ đang nổi lên vô cùng anh dũng và mãnh liệt tại quê
nhà, chắc chắn tất cả, vì ích nước lợi nhà, sẽ quật nhào và đào hố chôn sâu đảng Cộng Sản Việt Nam nhanh chóng.
Cũng như các dân
tộc khác trên thế giới, tuy phải kinh qua những thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử, phải thay đổi quốc kỳ, quốc ca, vì sự áp đặt bạo quyền, điều đó chỉ có tính
cách tạm thời và đoản kỳ so với chiều dài lịch sử mỗi nước, nhưng cuối cùng và vĩnh viễn, bao giờ chính nghĩa cũng chiến thắng hung tàn. Lịch sử quốc kỳ các nước thuộc khối Cộng Sản củ như Nga,Ðức, Bulgaria, Rumania,... bị bắt buộc phải dùng hệ thống cờ quốc tế Cộng Sản: Cờ Búa Liềm, Cờ Ðỏ Sao Vàng, sau khi Cộng Sản Liên Sô
và Ðông Âu sụp đổ, đã chính thức trở về với quốc kỳ nguyên thuỷ của nước họ, đã có từ những thế kỷ trước. Trường hợp Việt Nam chắc chắn cũng sẽ diễn ra theo bánh xe lịch sử như thế.
Hơn bao giờ hết, bổn phận và
trách nhiệm của mọi công dân Việt Nam, trong nước cũng như hải ngoại hiện nay, là dương cao ngọn cờ chính nghĩa, Quốc kỳ Việt Nam: Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ, toàn dân một lòng, quyết tiến về phía trước, đạp đổ bạo quyền Cộng Sản Việt Nam, dành lại công lý, nhân quyền và tự do dân
chủ cho nhân dân, đồng thời cùng nhau đoàn kết xây dựng lại một nước Việt Nam hùng mạnh và phú cường. Ðó là sứ mệnh thiêng liêng cao cả nhất, vẳng đi từ tiếng gọi của tiền nhân thưở trước, cho chính mình hôm nay và tương lai con cháu mai hậu.
Quốc kỳ Việt Nam: Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ sẽ tung bay
trên mọi nẻo đường đất nước Việt Nam thân yêu theo tiếng quân ca trong tiếng reo hò của toàn dân Việt chúng
ta trong thời gian tới.
"Này công dân ơi!
Ðứng lên đáp lời sông núi,
Ðồng lòng cùng đi..."
Trương Thúy Hậu
Tài liệu tham khảo:
- Liên Minh Dân Chủ Việt Nam
- Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Ðảng
- Fotki.com -
Flags
- Worldstatesmen.org/Vietnam
- Enchantedlearning.com/flags/
- The Heraldry and Vexillography
- Vexillology!
- World Flags @ History
- Flags Detective
- Flags of the World
- The Study of Flags
- Cyber-flag
- Flag Organizations
- City of Boston
- Vexilla Mundi
- FIAV
- Federation of Vexillological Associations
- A World Of Flags
- Flags of French Asian
- US Census
Bureau
- Trận Chiến Dựng Lại Cờ Vàng
- Tiết Cương Phá Thiết Khâu Phần
- Làng Chài
- Ðốc Sự 14. Net
- Việt sừ toàn thư-Sử gia Phạm Văn Sơn
=END=
7- Ðời Sống Quanh Ta
- Thế giới kỳ lạ của những người ăn khi ngủ
Kathleen Mc Auliffe
(Discover)
Minh Trang phỏng dịch
(VNN)
Khi còn ở tuổi mới lớn, Lynne
Romano thường xuyên giật mình thức dậy để thấy nước gia vị ravioli vung vãi khắp trên áo ngủ, hay
khoai tây chiên vứt bừa bãi trong phòng ngủ. Cô không hiểu làm thế nào lại có tình
trạng như vậy. Cô nói: "Sau đó mẹ tôi lại thường xuyên la rầy tôi vì hay lục lọi trong bếp ban đêm. Tôi không hiểu làm thế nào mà mình vừa ngủ vừa ăn được".
Càng lớn tuổi, vấn đề càng trở nên tệ hại hơn. Romano giờ đã 51 tuổi, có hai con và đang sống tại Andover, Massachusettes, cô nói: "Tôi thường xuyên thức giấc và thấy giấy gói kẹo rơi vãi khắp sàn phòng ngủ. Tôi cũng thấy có cả chén dĩa dưới sàn và điều này làm cho tôi phải hết sức cẩn thận để không giẫm phải mỗi khi thức dậy".
Ngoài việc vụn bánh vì
và vết dầu mỡ dính áo vào mỗi buổi sáng cùng với cảm giác khó chịu do ăn quá nhiều - Romano hoàn toàn không ý thức được điều gì về hoạt động ban đêm của mình. Có lần cô thức dậy và thấy tay bị đau, cô nói: "Tôi mở mắt và thấy mình bị phỏng - nghĩa là tôi đã nấu nướng trong khi ngủ!".
Romano đang mắc phải một trạng thái đặc biệt của chứng mộng du, gọi là rối loạn giấc ngủ có liên quan đến việc ăn uống (NSRED), một tình trạng xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1991. Ðây là sự kết hợp giữa tình trạng rối loạn giấc ngủ và rối loạn chức năng ăn uống. Không giống như những trường hợp khác, NSRED thường giống như một cơn nghiện, khiến cho người bệnh mỗi đêm thức giấc nhiều lần. Trong trạng thái say ngủ, họ tiêu thụ rất nhiều thức ăn và ngày càng tăng cân.
Hiện nay y học chưa hiểu được nhiều về tình trạng này do đó không thể đưa ra biện pháp điều trị cụ thể. Nhưng theo một công trình nghiên cứu mới đây, một loại dược phẩm sẽ được bào chế để chữa các bệnh về thần kinh - đáng chú ý nhất là chứng động kinh - và có thể điều trị chứng ăn vô độ này.
Ăn khi ngủ thường được xếp chung với một tình trạng rối loạn khác đó là hội chứng rối loạn bữa ăn ban đêm, với hội chứng này, bệnh nhân thường tiêu thụ phần lớn nguồn dinh dưỡng chỉ sau 6 giờ chiều. Hội chứng ăn đêm rất phổ biến đối với những ai đang rối loạn tâm lý và liên quan đến một loại nhịp điệu tác động đến cảm giác ngon miệng, thúc giục họ ăn vào ban đêm. Nhưng không giống với chứng ăn đêm, những người ăn đêm ý thức họ đang làm gì, và ăn rất nhiều trước khi ngủ. Nếu nửa đêm thức dậy để ăn, họ hoàn toàn ý thức được về hành động của họ.
Ngược lại, chứng ăn khi ngủ hầu như không hề ý thức, dù rằng
"bệnh nhân luôn tìm cách quay trở lại giường" - theo lời của Helene Emsellem, giám đốc y khoa của trung
tâm rối loạn giấc ngủ tại Chevy Chase, Maryland. Tình trạng rối loạn khá hiếm: Các bảng câu hỏi tham khảo cho thấy kết quả chỉ từ 0.5 đến 1 phần trăm người tham gia mắc phải chứng này. Nhưng đây chỉ là một cuộc khảo sát giới hạn, điều này là nhận định của John Winkelman, giám đốc y khoa trung tâm sức khoẻ giấc ngủ ở Brigham và bệnh viện phụ nữ ở Boston.
Do cảm thấy xấu hổ nên nhiều trường hợp mắc bệnh vẫn không được ghi nhận.
Chuyên gia về giấc ngủ Mark
Mahowald hiện đang làm việc tại đại học Minnesota nhận xét: "Rất nhiều người bắt đầu bằng tình trạng mộng du truyền thống, sau đó tập trung vào việc ăn uống. Chúng ta vẫn chưa hiểu được lý do tại sao như vậy". Các bác sĩ cũng không biết điều này có ảnh hưởng gì đối với những bệnh nhân mắc chứng rối loạn ăn uống ban ngày hay không. Những người đang được điều trị ở các trung tâm giấc ngủ thì lại không gặp vấn đề rối loạn ăn uống. Nhưng về mặt rối loạn ăn uống, nhiều người mắc bệnh ăn trong khi ngủ cũng có nguy cơ bị hội chứng biếng ăn ban ngày.
Tuy nhiên đói không phải là động cơ chủ yếu mà theo David Neubauer, trợ lý giám đốc trung tâm rối loạn chức năng ngủ tại trường y khoa John Hopkins: "Chu kỳ này có xu hướng phát sinh vài giờ sau khi họ ngủ và nếu bạn hỏi tại sao thì
họ cũng không thể trả lời được".
Những người ăn trong khi ngủ thường có xu hướng chọn các món ăn nhiều calori như kẹo, mật hay mứt. Keo, chocolate, bơ đậu phộng và mật ong là
những món rất được ưa chuộng - dù những người ăn trong khi ngủ luôn cố gắng né tránh các món này khi họ tỉnh táo. Càng khó tin
hơn khi họ cũng nhai thuốc lá, ăn bánh mì sandwich kẹp thịt - bất kỳ món gì
ngoại trừ rau. Mahowald nói: "Tôi chưa gặp trường hợp bệnh nhân nào ăn rau. Tôi cho rằng khi ngủ người ta không thích ăn rau". Ông thừa nhận rằng sự hấp dẫn đối với các món mà họ không thích lại càng không thể giải thích.
Nếu một thành viên trong gia đình cố gắng tìm
cách đánh thức họ, nếu quan hệ giữa hai người lúc bình thường không có gì căng thẳng thì khi họ đang ngủ, sẽ có khả năng trở thành một trận chiến, điều này làm người ta càng nản lòng khi muốn can thiệp. Những người ăn trong khi ngủ cũng cố gắng khoá tủ lạnh hoặc đề nghị người nhà khoá cửa phòng ngủ hay giấu thức ăn, nhưng những nỗ lực này hầu như bất thành, vì trong khi ngủ, họ rất kiên nhẫn và khéo
léo để tìm cách thoả mãn nhu cầu của họ. Neubauer cho biết: "Trong khi ngủ, có người lấy kéo
trên bàn ngủ và tìm cách cạy khoá cửa phòng. Hoặc đi lang thang và tìm thấy thức ăn được chính họ hay người thân giấu trong garage".
Neubauer cũng tin rằng những người ăn trong khi ngủ có thể kiểm soát được thông qua cảm tính: "Một nữ bệnh nhân rất sợ rắn, do đó khi đặt một con rắn giả trên bàn ăn, cô đã giữ được không cho bản thân lục lọi tủ lạnh vào ban đêm".
Một vài bác sĩ sử dụng dược phẩm thôi miên để tìm cách tránh cho bệnh nhân của mình
không ra khỏi giường ngủ. Ðiều này đang bị tranh cãi vì theo uỷ ban quản lý dược phẩm thực phẩm thì có một số loại dược phẩm như Ambien sẽ làm cho những người vốn không mắc bệnh lại trở thành bệnh.
Người ta đang tìm
kiếm một giải pháp điều trị tốt hơn. Theo một cuộc thử nghiệm tại bệnh viện Brigham đề nghị sử dụng loại dược phẩm Topamax, hiện đang dùng điều trị cho rất nhiều loại bệnh từ đau nửa đầu đến béo phì. Tương tự như nhiều loại dược phẩm khác, Topamax đẩy mạnh giấc ngủ. Winkelman cho rằng những người bị bệnh động kinh khi được điều trị sẽ bị giảm cân, do loại dược phẩm này làm mất đi cảm giác ngon miệng. Ông nói: "Chúng tôi vẫn chưa biết tác dụng của nó như thế nào, nhưng chắc chắn nó sẽ làm giảm việc ăn ban đêm, do vậy chúng
tôi quyết định thử". Trong lần đầu tiên - có 30 bệnh nhân tham gia - có gần 70 phần trăm bệnh nhân
giảm thiểu rõ rệt số lần ăn đêm, ngoài ra có 28 phần trăm giảm được 10 phần trăm trọng lượng cơ thể.
Lynne Romano là một trong số những người này. Cô nói: "Khi dùng thuốc, tôi ít thức dậy ban đêm và tôi
giảm được gần 20 cân trọng lượng cơ thể. Tuy đây chưa thể là một giải pháp hoàn thiện, nhưng chắc chắn là có ích". Ðây là một tin vui vì bệnh nhân đang rất cần sự giúp đỡ. Khi phá vỡ nhu cầu ăn uống, sẽ giải quyết tình trạng ăn quá nhiều - đôi khi điều này khá khó đối với bệnh nhân.
Winkelman hiện đang tiếp tục tìm người tình nguyện để thử sử dụng một loại giả dược của Topamax. Những ai muốn tham gia hãy liên lạc với ông qua địa chỉ jwinkelman@sleephealth.com.
=END=
8- Tạp Ghi Văn Nghệ
- Tản mạn chuyện văn nghệ quê nhà
Hồ Nam
Chuyện nhà văn Lý Qúi
Chung
Lý Qui Chung học Quốc Gia
Hành Chánh để làm quan theo gợi ý của cha là ông đốc phủ sứ Lý Qúi Phát [từng làm phó đô trưởng Saigon], nhưng chỉ học dở dang thì bỏ đi làm báo viết tường thuật đá banh cho tờ báo của ông ''bầu'' Ứng, rồi tham gia nhóm Phục Hưng Miền Nam của Võ Long Triều. Khi Võ Long Triều làm bộ trưởng Thanh Niên cho Nội Các Chiến Tranh của tướng Nguyễn Cao Kỳ, Lý Qúi Chung được Võ Long Triều trao cho phụ trách một Nha của bộ Thanh Niên, nghĩa là một bước từ nhà báo ''quèn'' lên làm ''quan''. Giám đốc tuy nhiên Lý Qúi Chung về nhà lại bị bố măng cho một trận ''không
học mà một bước làm quan thì sẽ không khá được đâu con ơi''.
Võ Long Triều giã từ tướng Kỳ, Lý Qúi Chung trở về nghề báo viết tiểu thuyết và viết xã luận vì Chung lúc này đã là chủ nhiệm tờ báo Tiếng Nói
Dân Tộc. Ðốc phủ sứ Lý Qúi Phát thấy con trai như vậy bèn gọi con trai lại bảo Chung rằng con muốn khá con phải làm ông dân biểu, và sau đó ''đốc phủ sứ'' Lý Qúi Phát liền bỏ tiền cho Lý Qúi Chung ra tranh cử dân biểu quốc hội, kết quả nhờ tiền của cha Lý
Qúi Chung đã đắc cử dân biểu quốc hội ở quận nhất đàng hòang. Ðắc cử dân biểu rồi Chung được cha chọn cho một ''minh chủ'' là tướng Dương Văn Minh, vì theo cha của Chung làm dân biểu ''oai''
thật đấy, nhưng không ''sang'' bằng làm bộ trưởng, nhất là làm bộ trưởng cho một chính phủ do ''minh chủ'' Dương văn Minh làm tổng thống.
Kết quả sự đầu tư của ông Ðốc Phủ Sứ Lý Qúi Phát là nhà báo kiêm nhà văn kiêm dân biểu Lý Qúi
Chung đã làm bộ trưởng bộ thông tin trong hai ngày của chính phủ Vũ Văn Mẫu thật.
Lý Qúi Chung có người cha tính tóan rất chí lý, trước ngày 30 tháng tư năm 1975 cha của Chung đã bảo với Chung rằng ông không tin Cộng Sản có thể đối đãi tử tế với cha con ông được, tốt nhất Chung chọn một cậu con trai gửi đi Mỹ để tính kế lâu dài. Chung đã nghe theo lời cha.
Kết quả đúng như lời cha
Chung tiên đoán. Chung không bị đi tù cải tạo nhưng cũng bị ''cải tạo tại chỗ'', còn cha Chung là ông Ðốc phủ sứ Lý Qúi
Phát thì bị đánh tư sản đã tức quá ''tai biến mạch máu não'' rồi nằm liệt đến chết.
Vì có công ''hiến miền Nam''
cho cộng sản Lý Qúi Chung được ''lưu dụng'' làm phóng viên thể thao rồi tới thời mở cửa muốn báo bán
chạy một tờ báo ở miền Bắc đã thuê Chung làm thư ký tòa sọan để ''câu'' độc giả và Chung đã ''câu'' được độc giả thật. Thói đời ''được chim bẻ ná được cá quăng nơm thỏ giết hết rồi thì thịt luôn chó'' Chung bị mời đi chơi chỗ khác chơi.
Chung buồn tình đời bay sang Bỉ gặp cậu con đi Mỹ trước ngày 30 tháng tư 1975, khi trở về nước phát hiện ung thư thận, vội vàng tranh thủ thời gian viết cuốn Hồi Ký
Không Ðề nói huỵch tọet tất cả những phũ phàng và mặt trái của tình đời.
Chung đã mất tất cả, nhưng Chung đã viết được tác phẩm văn chương
Hồi Ký Không Ðề, một tác phẩm viết bằng tất cả sư thật. Hồi Ký Không Ðề khi đem xuất bản bị Ban Văn Hóa Tư Tưởng Ðảng Cộng Sản không cho in khíến cho cựu thủ tướng Cộng Sản Võ Văn Kiệt phải can thiệp mới được in, nhưng cắt nhiều đọan Chung ức lắm, gửi bản thảo gốc ra nước ngòai cho bạn bè nhờ công bố toàn văn lên mạng Internet.
Công bình mà nói Lý Qúi Chung là người có văn tài. Chung dịch thuật rất hay với bút hiệu Trung Dũng. Lý Qúi Chung đã dịch bộ tiểu thuyết Con Chim Ẩn Mình Chờ Chết làm say mê nhiều bạn đọc. Lý Qúi Chung viết tiểu thuyết cũng rất khá, bộ tiểu thuyết Ao Tù Trưởng Gỉa của Lý Qúi Chung là một bộ tiểu thuyết để đời. Lý Qúi Chung không chỉ viết mà còn vẽ tranh sơn dầu, tranh
của Lý Qúi Chung rất có ''nét'' riêng.
Chung đã không còn nữa, nhưng tiếng kêu thống thiết của Chung
trước khi qua đời thì mãi âm vang vì tiếng nói của người sắp chết không
còn biết sợ là gì nữa khá trung thực.
Nguyễn Khải tự thú
Nguyễn Khải là nhà
văn cấm ''cạc'' vào lọai vai vế ở Hànội, ông nổi tiếng vì dám
viết sách tự thú là con quan, nhưng chỉ là con vợ lẽ thôi nên
chẳng sơ múi gì mới đi theo Cộng Sản. Nguyễn Khải ban đầu chê cha là hèn nhát, nhưng sau đính chính
lại là chỉ chê cha nhát thôi chứ không chê hèn. Mới đây Nguyễn Khải trả lời một cuộc phỏng vấn của nhà báo
Lưu Trọng Văn [con trai nhà thơ Lưu Trọng Lư], ông đã nói rằng ông được làm ''đại biểu quốc hội'' tới hai nhiệm kỳ nhưng ông thú thật ông chỉ là một thứ ''nghị gật'' mà thôi, chứ có dám nói năng gì đâu vì ăn nói lỗ mỗ lỡ vạ miệng xẩy chân còn đỡ được chứ xẩy miệng hết phương cứu chữa.
Hữu Thỉnh ''rớt đài''
Hữu Thỉnh, chủ tịch Hội Nhà Văn quốc doanh ở Hànội nổi tiếng về vụ cầm nhầm thơ của một nhà thơ Ðức được Ðảng Cộng Sản Việt Nam ''cơ cấu'' cho ra ứng cử Ðại Biểu Quốc Hội, nào ngờ Ðảng cử nhưng dân lại không chịu bầu ông ''cầm nhầm'' thơ thành ra Hữu Thỉnh ''rớt'' luôn. Kết quả là Quốc Hội của Hà nội kỳ này không có đại biểu nào là nhà văn quốc doanh cả, vui thật.
Lý do Kim Lân không dám viết truyện ngắn cuối cùng
Nhà văn Kim Lân nuôi ý định viết một cái truyện ngắn cuối cùng về một con chó trong mấy chục năm trời, nhưng ông thấy ông bạn ''sui gia'' với ông là nhà văn Hòang Công Khanh tù lên tù xuống chỉ vì ham
viết nên ông sợ quá, chỉ dám kể nội dung cái truyện ngắn ông đang thai nghén trong đầu cho bạn bè nghe
vì ''khẩu chứng vô từ'' mà không dám viết lấy một chữ, vì thế cho đến khi qua đời cái truyện ngắn ông định viết vẫn còn nằm nguyên trong đầu ông. Kim Lân nói với nhà thơ Nguyễn Thanh
Kim rằng ông viết hồi ký, những đêm mất ngủ nhưng đến con cũng dấu không cho đọc, vì thế trong tuyển tập Kim Lân không có hồi ký, ông bảo sau khi
ông qua đời mới được công bố hồi ký vì ông chết rồi ông chẳng còn sợ gì nữa.
Nguyễn Văn Xuân chết vợ con hết chỗ dựa
Nhà văn tiền chiến Nguyễn Văn Xuân là
một nhà văn ''nổi tiếng'' có nhiều sáng tác để đời từ hồi Tiểu thuyết thứ bẩy và là nhà Qủang Nam học có một không hai ở đời, khi ông còn sống ông là chỗ dựa của bà vợ ốm yêu và cậu con trai bệnh tật, nay ông qua đời vợ con ông bỗng bơ vơ không nơi nương tựa. Những nhà văn nhà thơ gốc Qủang Nam ở hải ngọai đang làm một cuộc quyên góp lớn để giúp đỡ cho gia đình nhà văn Nguyễn Văn Xuân, việc làm này thật đúng là một việc làm ý nghĩa trong khi Hội Nhà Văn quốc doanh ở Hànội lại cứ ''im như thóc''. Như thế là thế nào vậy thật khó hiểu quá.
Nhà văn Nguyễn Nghiệp Nhương ung thư đai tràng
Nguyễn Nghiệp Nhưỡng là nhà văn trong nhóm Văn Chương với Phạm Thiên Thư, Nguyễn Tiến Văn Phạm Kiều Tùng, vừa phải cắt một mét ''đại tràng'' vì ung thư ''đại
tràng''. Sau khi cắt ''đại tràng'' Nguyễn Nghiệp Nhượng còn phải ''hóa trị'' một thời gian dài nữa. Khi Nguyễn Nghiệp Nhượng bị ung thư bà vợ trước của Nguyễn Nghiệp Nhương là nữ ca sĩ Hồng Vân vẫn luôn điện thọai hỏi thăm và thúc dục các con săn sóc, phải săn sóc ''bố'' Nguyễn Nghiệp Nhượng thật chu đáo vì mẹ không tiện săn sóc.
Gặp Nguyễn Nghiệp Nhữơng từ 60 kí
còn ba mươi mấy kí nhà văn của chúng ta vẫn cười và nói còn thở thì vẫn còn vật lộn với chữ nghĩa qua cái máy vi tính, ''ung thư'' thì ung thư vẫn không
xa rời văn chương.
Chuyện ông Nguyễn Gia Kiểng
Nhà văn Hòang Tiến vừa lên tiếng về ông Nguyễn Gia Kiểng phát
ngôn lăng nhăng về Phong Trào Dân Chủ ở Việt Nam làm cho chúng tôi nhớ tới cái cuốn sách
''Tổ Quốc Ăn Năn'' của ông Kiểng. Cái nhà ông kỹ sư nông nghiệp này thật lạ bỗng dưng đi viết một cuốn sách mấy trăm trang hạ nhục dân tộc, hạ nhục thi hào Nguyễn Du, hạ nhục vua Quang Trung một cách quàng xiên, khi quả quyết dân tộc Việt Nam là
dân tộc lai Tầu không biết đọc, không biết viết, không có đầu óc sáng tạo, chỉ giỏi ''nhái'' theo thiên hạ, thi hào Nguyện Du chỉ là một nhà dịch thuật dở.
Với nhân vật chuyên viết những chuyện ''càn rỡ'' như ông Nguyễn Gia Kiểng chúng ta có nên tốn giấy mực không
nhỉ?
Sa Giang Trần Tuấn Kiệt với Ðao Ðại Hành
Sa Giang Trần Tuấn Kiệt, nhà thơ từng được Giải Khôi Nguyên về thơ từ thời Ðệ Nhất Cộng Hòa là người đa tài, ngòai thơ văn ra còn
là Chưởng Môn võ phái Tây Sơn Nhạn và là
tay đàn kìm vào lọai ''cự phách'' và một danh y về thuốc Nam. Vì có nhiều tài như vậy Sa Giang Trần Tuấn Kiệt đã bị Cộng Sản đưa đi ''phát vãng'' tại trại Gia Trung, và tại trại này Sa Giang Trần Tuấn Kiệt ''bị'' coi trạm sá Y tế của trại đúng vào lúc dịch tả hòanh hành dữ dội, Sa Giang Trần Tuấn Kiệt đã dùng thần quyền ''đánh nhau'' với thần dịch tả rồi kết hợp với thuốc Nam dập tắt bệnh dịch tả.
Hiện Sa Giang Trần Tuấn Kiệt sống trên căn gác nhỏ ở khu Hàng
Xanh Thị Nghè Saigon cùng với con trai. Sa Giang Trần Tuấn Kiệt trước đây nổi tiếng là một tửu đồ nay bỏ rược chỉ còn uống cà phê và trà.
Nhân dịp Vũ Uyên Giang và Hương
Sa Mac từ Mỹ về nước ghé thăm Trần Tuấn Kiệt, hai người hỏi Kiệt lúc này còn sáng tác nữa không, Kiệt cho biết mới viết xong
hai tác phẩm lớn đó là Ðao Ðại Hành một tôn giáo hòan tòan của người Việt Nam dầy mười hai ngàn trang, và tập Thi ca Việt Nam dầy hai mươi
ngàn trang. Nghe Kiệt nói Vũ Uyên Giang vô cùng kinh ngạc
- Ðạo Ðại Hành là đạo gì vậy?
- Ðạo thờ các nhân
thần đạo thờ cúng tổ tiên, một tôn giáo có từ ngàn đời và hiện đa số dân Việt Nam vẫn còn theo tôn giáo này.
- Kiệt còn làm thơ không?
- Vẫn làm và làm rất nhiều thơ, mình
còn sống đến hôm nay là nhờ thơ.
- Kiệt khỏe không?
- Vẫn ói ra máu dài dài nhưng vẫn sống thỏai mái và
viết lách ngày đêm.
- Là thầy thuốc sao Kiệt không
chữa hết bệnh của mình đi?
- Chúng nó cùm, chúng nó đánh thuốc nào chữa hết, bệnh này
còn sống đến hôm nay đã là khá lắm rồi.
- Binh nhiều sao vẫn viết được?
- Viết cũng là một cách chữa bệnh.
Kiệt cười và chỉ cho mọi người nhìn căn gác mái tôn nóng bỏng của Kiệt nơi Kiệt ngày đêm nằm bò ra sàn gác đánh vật với chữ nghĩa một cách hồn nhiên vô tư.
HỒ NAM
=END=
9- Gương Xưa Tích Cũ
- Chờ Chi Không Dzớt
Mõ Sàigòn
(SGT)
Vương Quế Am, con nhà thế gia ở Ðại Danh, tỉnh Hà Bắc, đi chu du ở miền nam bằng thuyền. Lúc đậu ở bến sông, bất chợt thấy thuyền bên cạnh có một cô con gái trông thật là quá đã, bèn lấy quan tiền liệng qua, nhưng cô ấy có vẻ như không hay biết gì hết cả.
Quế Am bực bội nghĩ:
- Thấy tiền mà chê
thì chỉ có hai trường hợp. Thứ nhất là mát. Thứ hai là đui. Chớ không mát không đui thì có lẽ chưa nhiều đó vậy.
Bèn nổi tính nghịch ngợm, liền lấy lạng bạc quăng qua, để thử xem suy nghĩ của mình sai hay đúng. Thời may trúng ngay vạt áo của người ta, rồi thấy cô gái ấy đi tới be thuyền. Liệng lạng bạc trở qua mà nói rằng:
- Người ta dùng tiền để tậu nhà, tậu địa vị, tậu luôn... tình nghĩa. Sao chàng lại bỏ đi?
Quế Am liền chạy tới be thuyền, nhìn
thẳng vào mặt của người đẹp, thì thần trí điên đảo, phách lạc hồn tan, bèn ú ớ nói:
- Giỡn chơi mà
thành thiệt. Quen chơi mà thành vợ chồng. Có thiệt không đây?
Cô gái chưa kịp trả lời, thì người lái thuyền về, cởi dây dông mất, để Am ở lại tâm thần ảo não, gan ruột rối bời, tưởng như bị giựt hụi cũng khó buồn hơn thế. Ðã vậy lại chẳng biết tên, thêm thiếu người thăm hỏi, nên chỉ biết thẫn thờ mơ tưởng, trách vụng trách xui, rồi trách cả mẹ cha sao lại sinh ra vào tuổi sửu, để chậm lụt tứ bề, khiến con mất vợ mẹ mất dâu. Lòng ôm đau đớn!
Nửa năm sau Am về đến nhà, mẹ là Vương thị mừng rỡ chạy ra, nhìn con nói:
- Cạm bẫy giăng đầy đường khắp lối, khiến ai nấy giơ tay ra cũng đụng phải lưới, bước chân đi không tránh khỏi tròng, mà con vô sự bình an. Chính là nhờ mẹ ăn tàu hủ tháng
này qua năm khác.
Am xuội lơ đáp:
- Có cạm bẫy mà rớt vô. Vẫn hơn là bình
an mà không có gì hết cả.
Vương thị nghe con đối đáp làm vậy, tóc bỗng dựng ngược lên, lẩm bẩm nói:
- Ðàn ông mà ăn nói lạng quạng kiểu này,
thì chỉ có một chữ yêu. Tuyệt nhiên chẳng có lý do nào hết cả, rồi lo lắng nói:
- Con đang mang tâm bệnh. Giống như là mới biết yêu mà
chưa được đáp đền. Có phải vậy chăng?
Am ngập ngừng đáp:
- Dạ phải!
Vương thị lại nói:
- Lấy vợ xem tông, lấy chồng xem giống. Vậy tông
tích nó ở đâu? Gia cảnh thế nào? Hãy mau nói để ta tiện bề tính toán.
Am lặng người đi một chút, rồi khổ sở đáp:
- Người ta ở trên
thuyền. Chưa kịp giao kết đã chạy đi, thì biết tông tích ở đâu mà truy kiếm?
Vương thị nhìn con, rồi đưa
bàn tay ra mà đếm, bỗng tái mặt nói:
- Con lớn bộn rồi mà ta hổng biết hổng hay. Thiệt là bết bát!
Rồi gọi Am đến mà nói rằng:
- Tình yêu và hôn nhân như một canh bạc. Nhất chín
nhì bù. Canh bạc không chung bằng tiền mà chung cả cuộc đời. Nay con lại chơi bài như vậy. Chẳng uổng lắm ư?
Am lắc đầu một hơi mấy cái, rồi quả quyết đáp:
- Vừa gặp nhau có một lần, mà đã thập phần thân
thuộc, thì tự hậu trước sau, con sẽ không đám cưới với người nào hết cả.
Lúc bấy giờ, có quan
Thái bộc họ Từ được bổ nhậm làm xếp ở Trấn Giang, là bà con cô cậu. Nhân thấy Trấn Giang
phong cảnh hữu tình, nên nhắn gọi Quế Am về chơi cho biết. Quế Am, phần thì ôm mối sầu vạn cổ, phần sợ mẹ ép chuyện nợ duyên, nên tức tốc lên đường cho sớm.
Khi gần đến nơi thì trời đã về chiều, Am thấy một ngôi
nhà nhỏ, bèn vào xin nước uống, bất chợt thấy cô gái trên thuyền đang ngồi bói bài một mình, bèn mừng rỡ la:
- Tạ ơn Cậu Bà đã hướng dẫn đến đây, thì cũng xin Cậu Bà khép vào cho bình yên chắc cú.
Rồi trong lúc bàng hoàng như vậy. Chợt nghe cô
gái hỏi:
- Thân thích không phải mà họ hàng cũng không. Sao lại đem Cậu Bà vô trong đó?
Am liền đem hết nỗi khổ ra mà kể. Lúc kể xong, mới rưng rưng nói:
- Những kẻ khóc âm
thầm là những kẻ đã chấp nhận đời mình thua thiệt. Ðã nhận chịu hoàn toàn cảnh ngộ mình đang có, nhưng bây giờ may gặp nhau đây, thì hổng biết có buồn thêm không nữa?
Cô gái ngẫm nghĩ một chút, rồi cẩn trọng nói:
- Ðã là dòng dõi thế gia, tất nhiên đã có giai
nhân hầu hạ, thì cần chi phải tìm tới thiếp. Chẳng phí lắm ư?
Am quả quyết đáp:
- Ta đang còn độc thân, và chỉ quyến luyến mỗi mình nàng. Nếu nàng cự tuyệt không ưng, thì ta sẽ ở vậy cho hết đời suốt kiếp.
Cô gái hết nhìn trời, nhìn đất, rồi cảm động nói:
- Lòng chàng thiếp đã hiểu, nhưng thực tình không dám tỏ ra cùng cha mẹ, bởi thiếp đã trái lời mà cự tuyệt mấy nhà rồi. Chi bằng chàng hãy tạm lui, rồi cậy nhờ mai mối đến hỏi, thì đại sự ắt thành. Chớ chàng cứ lạng quạng ở đây, lỡ cha mẹ về, thì chẳng những hổng đặng êm xuôi, mà chữ phu thê sẽ trần ai ra nữa!
Am mừng rỡ đáp:
- Ðược! Ðược! Ta sẽ đi ngay. Bảo đảm sẽ có rượu trầu trong sớm tối.
Rồi bịn rịn quay lưng. Chợt nghe cô ấy nói rằng:
- Vương lang. Thiếp họ Mạnh, tên
là Vân Nương. Bắt đầu từ hôm nay, thiếp cố công thêu thùa may vá, học đặng món
ngon, để ít nữa mai kia lo săn sóc chàng, hầu đáp lại mối chân tình chàng đã nặng trao, nơi tâm hồn của thiếp.
Tối ấy, Am không làm sao
ngủ được. Phần thì hổng biết nhờ ai, phần thì nôn nóng, nên sáng sớm ngày mai chạy đến nhà của Vân Nương, xin yết kiến cha nàng, rồi đem gia thế ra mà kể, và ngỏ ý cầu hôn, cùng móc ruột tượng ra một trăm lạng bạc xin làm sính lễ. Chợt Mạnh ông cau mặt nói:
- Con gái tôi đã hứa hôn rồi.
Quế Am bỗng xây xẩm mặt mày. Hốt hoảng nói:
- Vừa mới phòng không chiếc bóng.
Nay lại dính vô. Sao lại có thể lẹ làng mau như thế?
Mạnh ông nhìn Am bằng nửa con mắt, chắc nịch đáp:
- Ta già rồi, nói dối với cậu làm gì.
Chỉ là vừa mới nhận lời của người ta xong, nên không thể chỉ một con
mà... chia làm hai đám.
Quế Am đau khổ đến cùng cực, bao nhiêu mộng đẹp cơ hồ tan biến, bèn nắm chặt đôi tay. Gắng gượng nói rằng:
- Tiểu sinh xin đặt thêm một trăm lạng nữa. Có gỡ được chăng?
Mạnh ông đỏ mặt đáp:
- Ta không phải hạng người coi trọng đồng tiền, và cũng không vì đồng tiền mà đánh mất đi chữ tín với người ta. Ngươi còn nhỏ. Ðời còn dài. Sao không biết phát triển cái tài năng của mình, mà lại dựa vào tiền bạc. Chẳng uổng lắm ư?
Vương như người á khẩu. Chẳng biết nói sao, tính cáo biệt ra về, nhưng trong bụng cứ bán tín bán nghi. Cho rằng không thực, nhưng bây giờ tình hình cấp bách, sợ chần chừ e lọt mẹ đi chăng, nên ú ớ nói:
- Nếu chồng thêm chút nữa. Có hy vọng gì chăng?
Mạnh ông dịu giọng đáp:
- Con ta nhỏ thì uống sữa, lớn thêm một chút thì ăn cháo bào ngư, lớn thêm chút nữa thì ổ yến hai ngày ba lượt, mà bây giờ thu lại chỉ có hai trăm, thì sở hụi mần răng tính toán?
Quế Am cảm như có ai tạt thau nước vào lòng, khiến bụng dạ lao xao. Vội vã nói:
- Nước xa không cứu được lửa gần. Nhà tiểu sinh tuy khá giả, nhưng không cùng ở địa phương, nên trong phút chốc khó lòng chồng thêm được.
Rồi nuốt nước miếng một cái, mà nói rằng:
- Hay là cho tiểu sinh một khoảng thời gian để về nhà. Có đặng hay chăng?
Mạnh ông lặng người đi một chút, rồi thủng thẳng đáp:
- Trong vòng một tháng
mà ngươi không trở lại, thì coi như vô nợ không duyên. Ðường ai nấy bước.
Quế Am nghe Mạnh ông hứa hẹn làm vậy, mắt vụt sáng
lên, tun run nói:
- Ðể khỏi đau tim.
Xin cho biết tiểu sinh phải chồng bao nhiêu nữa?
Mạnh ông đưa
tay đếm đếm một hồi, rồi chắc miệng đáp:
- Ðúng năm trăm. Không
lấy hơn và cũng không nhận thiếu.
Quế Am thấy năm trăm hơi nhiều, sợ mẹ không đồng ý, nhưng khi nghĩ tới Vân Nương về ở với mình, thì hứng khởi bùng lên, lẩm bẩm nói:
- Nếu kẹt quá thì thâu lại của hồi môn. Chớ mất đi đâu mà sợ!
Lúc Quế Am về rồi, Vân Nương
mới chạy ra, sửng sốt nói:
- Chu công tử trả một trăm. Cha đã bằng lòng, nhưng ngoài mặt ra vẻ chưa thông hầu kiếm thêm vài lạng. Nay có kẻ trả đến hai trăm mà cha vẫn chưa hài lòng, là cớ làm sao?
Mạnh ông cười cười mấy cái, rồi chậm rãi đáp:
- Chu cổng tử chỉ là bỏ tiền mua vui, mà giả như bỏ nhiều quá mà không vui, thì mần răng mà chịu? Còn thằng này vì thương nên chịu bỏ tiền - mà ta không nâng giá lên - thì trước mặt tổ tiên cũng sai nhiều sai tới.
Vân Nương nghe cha
phân giải làm vậy, lòng chẳng đặng yên, bèn ưu tư nói:
- Tiền với hạnh phúc
mà cứ trộn với nhau thế này, thì chừng mô mới khá?
Mạnh ông tức tốc đáp:
- Thương nhiều mà tiền ít, vẫn thua thương
ít mà tiền nhiều. Nay con gặp kẻ có đủ hai bên, thì trước là yên lành về bến đậu, sau cha nhờ đó mà có chút ít lận lưng, thì... chờ chi mà không dzớt?
=END=
**********************************